T LẠI trong “Mời trầu

                                      Nguyễn Đức Dân

về trang chủ

*                 Hồ Xuân Hươngcó bài thơ tình tuyệt hay:Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi/ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá bạc như vôi” (Mời trầu)

Rất nhiều người khiphân tích cái hay của bài thơ nàyđều dựa vào nội dung huyền sử dân gian trầu cau từ thời Hùng Vương để bình.  Đó là ngày xưa có hai anh em giống nhau như đúc và rất mực thương yêu nhau.Sau khi có vợ, người anh dường như không còn chăm sóc đến em như trước nữa.Buồn bã người em bỏ nhà ra đi, đi mãi.Tới bên bờ suối thì mệt quá, gục xuống chết và hóa thành tảng đá vôi.Không thấy em về, thương em nên người anh quyết đi tìm.Đi đến bờ suối thì mệt lả chết và biến thành cây cau mọc bên tảng đá vôi.Không thấy chồng người vợ cũng bỏ đi tìm.Cũng đến bờ suối đó, mệt quá, ngồi dựa vào gốc cau rồi chết, biến thành cây trầu không.Trầu không, cau và vôi khi quyện lại với nhau tạo ra sắc đỏ như máu.Ba thứ trầu, cau và vôi trở thành biểu tượng tình nghĩa thắm thiết vợ chồng, anh em.

Không ai bình giảng về giá trị của từ ‘lạitrong  bài thơ này. Rõ ràng không thể thay từ lạibằng một từ bất kỳ nào khác mà không làm mất đi ý tứ cốt lõi của bài thơ. Vai trò của ‘lại’ trong bài thơ này là gi?

*           Từ điển tiếng  Việt của viện Ngôn ngữ cấp cho từ ‘lại14 nghĩa, cả chục nghĩa coi ‘lại’ là từ phụ đứng trước hoặc sau động từ  và hàng loạt tổ hợp từ ‘lại’ mang tính thành ngữ. Những giáo trình và sách nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt cũng có những nhận định tương tự.Thật ra tất cảcác nghĩa của từ lại’được hình thành từ một nghĩa gốc về chuyển động của  ‘lại’ liên quan đến ‘đi’ trên cơ sở nhận thức (cognition) của người Việt như hình bên.

                                                            đi

            (hình I            )gốc               

lại

*                 Đi là dời khỏi gốc xuất phát, lại là trở về gốc đã ra đi.ra đi thì mới có trở lại. Thế là ‘lại’ chuyển thành nghĩa “sự lặp lại”.

Do vậy, nghĩa cơ bản của từ ‘lại’ là sự lặp lại(một hành động, một sự kiện hay một thuộc tính).Trâu bò là loài nhai lại.Ngán nỗi xuân đi xuân lại1lại2  /Mảnh tình san sẻ tí con con” (Tự tình II, HXH) Trong câu thơ trên lại2 trỏ nghĩa mùa xuân trở lại. Trở lại một vị trí đã xuất phát là lặp lại vị trí đó.

Lặp lại hành động, sự kiện, hay thuộc tính được nhận thức là tạo ra những hành động, sự kiện, hay thuộc tính giống nhau.Rộng hơn nữa là sự phù hợp. Do vậy, ‘lại’ được chuyển nghĩa mới thành sự phù hợp.

            Ngô Tất Tố viết “Hai ông ấy đã làm nghề tri huyện lại kiêm cả nghề đào mỏ, chẳng qua cũng muốn vinh thân như mọi người”.Thế là nghề nghề tri huyện và nghề “đào mỏ” (lấy vợ con nhà giàu)phù hợp nhau về mục đích vinh thân.

Sự phù hợpnày thể hiện ngầm ẩn trong nhiều kết hợp ngữ pháp: Cứ gặp những câu có từ ‘lại’ như X vả lại Y’; ‘X lại Y nữa’, ‘Đã X lại Y’là chúng ta biết chắc rằng X và Y phải phù hợp nhau theo một cách nào đó.“Họ cần cù, vả lại tiềm lực lớn nên thành công là đương nhiên”.Câu này nghe xuôi. Nhưng câu “Họ cần cù, vả lại  *đã cạn vốnnên thành công là đương nhiên”  nghe không xuôi vì sự cần cù, và đã cạn vốn không là tiêu chí phù hợp nhau cho đường làm ăn thành công.

Hình trên cho thấy‘đi’ là chuyển động mở raxa dần gốc,  không gian mở ra, làm tăng khoảng cách, tầm nhìn giảm dầncòn ‘lại’ là chuyển động trở lại gốc.Hình thành 3 nghĩa của ‘đi’:

1.      Đi có nét nghĩa sự suy giảm

Đen đi, xấu đi, gầy đi, mờ đi, nghèo đi, hèn đi, kém đi, chậm đi,lười đi, yếu  đi, tái đi, xám đi, vơi đi, lặng người đi

2.      Chuyển dịch xa gốctới lúc nào đóđối tượng thoát khỏi tầm nhìn nênđikết hợp với những hành động làm đối tượngkhông thấy được:Trốn đi, giấu đi, che đi, lấy đi, ném đi, loại đi, bỏ đi, vất đi, khử đi, văng đi.Khi bực tức người ta hét: ‘Cút đi, mày xéo đi cho khuất mắt tao!’

3.      Dời khỏi gốc chuyển thành dời khỏi gốc rễ. Gia đìnhlà cội nguồn, gốc rễ. Thế là hình thành ẩn dụ:  đi  chết. “Cụ tôi mới đi năm rồi”. “Bác đã đi rồi sao Bác ơi” (Tố Hữu)

*                 Chuyểnđộng về điểm gốclà trở về nơi xuất phát, trở về trạng thái ban đầu. Từ ‘lại’ có một nghĩa mới:trở về trạng thái ban đầu.

Giống lúa lai tạo, sau vài thế hệ trở lại như xưa, đó là ‘lại giống’. Một người qua cơn bạo bệnh sức khỏe trở lại như xưa, ấy là đã ‘lại người’, ‘lại sức’, ‘khỏe lại’.  Người miền Bắc đặt sính lễ cưới trong những quả sơn son thiếp vàng mang đến nhà gái.Sau lễ cưới, nhà gái đưa lại nhà trai một phần lễ vật đó.Phần lễ vật này đã trở về nơi xuất phát nên thành cách nói lại quả.Ngày nay, trong các hợp đồng đấu thầu làm ăn kinh tế, cách nói lại quả trở thành một ẩn dụ cho bên mời thầu hưởng lợi nhờ bên trúng thầu trả lại một phần lợi ích (thường bằng tiền bạc) cho bên cung cấp hợp đồng.‘Lại hôn’ là gì nếu không phải là từ bỏ việc hôn nhân đã đính ước để trở về trạng thái ban đầu? Sau Tết, nói “bánh chưng bị lại gạo” là nói bánh chưng để một thời gian dài trở nên khô cứng như lúc gạo còn sống.Những cách nói tỉnh lại, trẻ lại, lấy lại tinh thần, nhớ lại, tìm lại họ hàng …Rồi Cô hồi tưởng lại ba xuân trước, /Trên bến cùng ai đã nặng thề.’ (Cô lái đò, Nguyễn Bính),“Nước Mỹ trở lại của ông Biden” (tít báo TT, 29.11.2020) ,cũng đều được hiểu là trở lại trạng thái đã có như trước kia.

*      Có ra đi thì mới có trở lại nên ‘đi’ là chuyển động thuậnxảy ra trước còn ‘lại’chuyển động ngược trái với ‘đi’ xảy ra sau.Ấy vậy là ‘lại’ có thêm nghĩa đáp trả, phản ứnglại: hòn đất ném đi  hòn chì quăng lại, cãi lại, mắng lại, nhạo lại, phê phán lại, đánh lại, bắn lại, bật lại, văng lại…Cóđáp trả có quan hệ “sòng phẳng”.Có đi có lạicho toại lòng nhau; Ở đời này bánh ú trao đi bánh chì trao lại, có ai cho không ai bao giờ đâu!

*      Cũng từ đây ‘lại’ được thêm nghĩa mới trỏ những hiện tượng lạ lùng, ngược đời.Lẽ thường càng uống càng say nhưng Chí Phèokhông vậy, hắn ta tức vì chuyện ngược đời này. “Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra”(Chí Phèo).Thực hiện một hành động theo hướng thuận, rồi thực hiện hành động đó theo hướng ngược, cứ vậy sẽ tạo ra ý nghĩa hành động lặp lại nhiều lần: “làm đi làm lại suốt buổi chiều mà vẫn không xong”, “Ông cụ sốt ruột đi đi lại lại”.

*                 Trong tiếng Việt, có hàng loạt khuôn mẫutrừu tượng dùng từ lại nói lên hàm ý về điều ngược đời.

            Dù không biết nội dung cụ thể của XYnhưng khuôn “X gì mà (lại)Y thế?” là cách chất vấn để tạo ra hàm ý “đối tượng này không xứng đáng là X”. Chẳng hạn, “Tiến sĩ gì mà lại không biết dùng PowerPoint” là câu chê một người không xứng đáng là tiến sĩ.Khi yêu say đắm ta sẽ làm tất cả những gì người yêu muốn. Nhưng anh bồ lại ki bo. Vậy là ngược đời, không bình thường nên cô gái chê bồ:“Yêu gì mà lại ki bo thế!

Từ ‘sao’ dùng để chất vấn, còn từ ‘lại’ gắn với những hiện tượng ngược với lẽ thường. Ấy thế là ‘Sao lại X!thành khuôn chất vấn bác bỏ X.“Sao tôi lại không biết!” có hàm ý tôi biết.“Sao lại không nói điều đó!” có hàm ý là lẽ ra cần nói điều đó.Còn “Sao lại nói điều đó!” có hàm ý trái lại lẽ ra không nên nói điều đó. Ra đến bìa rừng, ánh trăng lóe lên, anh lính lái xe đường Trường Sơn tưởng là pháo sáng nên ngạc nhiên:Không nghe tiếng máy bay sao lại có pháo sáng!” (Mảnh trăng cuối rừng)

            Sao lại X!là một lược đồtrừu tượng.Tiếng Việt có nhiềulược đồ trừu tượng liên quan đến từ ‘lại’ gây ra hàm ý. Ví dụ:

(I)                X thì A (nhưng) (mà) Y lại B

(II)       X thì A còn Y lại B

Nghĩa của A và B trong hai lược đồ I và IIluôn luôn đối lập nhau.Nếu A nghĩa thuận lợi thì B nghĩa bất lợi và ngược lại.Trong tâm trí, người Việt luôn cảm nhận được điều gì là thuận lợi, điều gì làbất lợi.Chẳng hạn A =ngon, tử tế, xinhđẹp, hiền lành, vui vẻ… thuận lợi, đối lập với B = chua, xấu xa, tối tăm, độc ác, chua cay, dữ tợn… bất lợi.Chúng ta dễ dàng gặp hàng loạt những câu theo hai lược đồ trên: Bề ngoài [thì] thơn thớt nói cười, mà trong [thì lại] nham hiểm giết người không dao. (Truyện Kiều) Ông bố thì cao ráo vậy mà cô con gái trông lại Thị Nở quá; Quả này trông thì ngon nhưng ăn lại chua; Cô chị [thì] hiền thế, còn thằng em lạihay gây gổ với người khác; “Người mẫu gì mà lại mập úvậy!. Trong một truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tưviết: “…Con tao mà lại thế à?” Câu này có hàm ý con tao không như thế. Nó không hành động như vậy; các người có thể nhầm lẫn ai đó với con tao.

*     Trở về gốc là vận động hướng tâm, khoảng cách được rút ngắn, thể tích, không gianthu nhỏ lại.Thế là ‘lại’ có thêm một nghĩa mới: sự tập trung.

Tất cả những hành động cụ thể và trừu tượng nào được nhìn nhận là hướng tâm, tập trung hay thu hẹp khoảng cách và không gian đều kết hợp được với từ lại để biểu thị  nghĩa này.Nhân Tết cổ truyền, chúng ta nhắc tới tục ăn trầu cau. Miếng trầu gồm: cau, lá trầu không, thuốc xỉa, vôi. Xưa mỗi nhà thường cóông bình vôi đựng vôi để quệt vôi khi têm trầu.Ông bình vôi dùng lâu năm cổ vôi thắt lạinênLê Đạt có bài thơCó những người sống lâu trăm tuổi/Y như một cái bình vôi/Càng sống càng tồi/Càng sống càng bé lại. Rồivun rác lại,gom tiền lại, gấp vở lại, khoanh tay lại,khép chân lại, ngắn lại, Nhỏ lại,  ngắn lại, co lại, người tóp lại, hóp lại, teo lại, co cụm lại, túm tụm lại, dúm lại, mắtríu lại, choắt lại, quắt lại, hẹp lại, đặc lại, khít lại, góp lại,dồn cục lại, xúm lại, chất đống lại,thót bụng lại, thu mình lại, nhắm mắt lại, trói lại, gói lại, cuộn lại, gấp lại, nước mưa đọng lại, bột quánh lại, đườngcô lại, tập hợp lại, liên hiệp lại, đoàn kết lại...Chúng ta dùng “nói tóm lại” để tóm tắt một vấn đề cho gọn lại. Có thể chỉ bằng một câu là tóm vấn đề được lại rồi. Khi bàn thảo những chuyện phức tạp, cuối cùng chủ tịch hội nghị kết luận “vấn đề được gút lại như sau…”

*           Với hiện tượng chuyển nghĩa này, bạn dễ dàng giải thích giá trị không thay thế của từ lại trong câu thơ “Có phải duyên nhau thì thắm lại/Đừng xanh như lá bạc như vôi”. Trong miếng trầu có cau, vôi bạc, lá trầu xanh, ban đầu là những đối tượng rời nhau với những màu riêng rẽ ấy. Khi thành duyên, chúng gắn kết với nhau. Chính nét nghĩa sự hướng tâm, sựtập trung, khoảng cách bị thu nhỏ của từ lại làm cho thắm lạicó nghĩa là hai đối tượng hướng đến nhau không còn khoảng cách quyện chặt gắn kết nhau biểu trưng cho sắc thắm tìnhyêuthủy chung, son sắt.