Từ
hư: tác tử tạo nghĩa trong tiếng Việt[1]
Nguyễn
Đức Dân
1.
Từ thực
và từ hư
1.1.
Trong truyền thống
Việt ngữ học, từ vựng tiếng Việt
được phân thành thực từ và hư từ
(cũng gọi là từ hư). Thực từ là những từ
có ý nghĩa từ vựng, có chức năng định
danh và có thể đảm nhận vai trò làm các thành tố
chính trong cấu tạo cụm từ và cấu tạo câu.
Hư từ không có chức năng định danh, không có
thể đảm nhận vai trò các thành tố chính trong cấu
tạo cụm từ và cấu tạo câu. Hư từ
được phân thành ba lớp phụ từ, quan hệ
từ và tình thái từ gồm trợ từ, tiểu từ
và cảm từ (thán từ). Hoặc Thực từ là “những
từ có nghĩa từ vựng
độc lập, có khả năng hoạt động
với tư cách là các thành phần trong câu.” [14], còn hư từ
là “những từ không có khả năng độc lập
làm thành phần của câu mà để dùng biểu hiện
những kiểu quan hệ ngữ nghĩa-cú pháp khác nhau giữa
các thực từ.” [14] Thậm chí về phương diện
nghĩa, có người còn coi hư từ là những từ rỗng nghĩa (empty
word, mot vide) [17]. Hầu như các nhà Việt ngữ học
quan tâm tới từ vựng và ngữ pháp đều đề
cập tới lớp từ này. Chẳng hạn Diệp
Quang Ban [1], Nguyễn Tài Cẩn [2], Đỗ Hữu Châu [3],
Lê Đông [11], Đinh Văn Đức [12], Cao Xuân Hạo
[15], Nguyễn Văn Hiệp [21], Lê Văn Lý [17], Nguyễn
Kim Thản [19], Đỗ Thanh [20], Nguyễn Minh Thuyết
[21], Bùi Đức Tịnh [22], Bùi Minh Toán [23], Hoàng Tuệ
[24], Phạm Hùng Việt [25]…Những
định nghĩa trên ít nhất cũng bỏ qua lớp
từ phiếm định dùng để hỏi ai, nào, sao, gì, đâu, bao giờ, khi
nào, … những từ vẫn có khả năng độc
lập làm thành phần câu. Như: “Ai đấy?”; “Ai hỏi
mà mày nói!”; “Bao giờ cho
đến tháng 10” (tên một bộ phim); “Gì cũng được, tùy anh” (TYSCT:141);
“Sao lại không đòi công bằng?”
(PTH); [“Anh muốn đi đâu?] / - Đâu cũng được. Trong những câu
này ai, bao giờ, gì, sao, đâu
là chủ ngữ, vì nếu coi chúng là trạng ngữ hay phần
phụ đứng đầu câu thì khi bỏ đi những phần
còn lại không còn là câu nữa.
Vậy thì, ngoài liên từ, giới
từ, trợ từ, hệ từ chúng tôi cũng coi lớp
từ phiếm định dùng để hỏi ai, nào, sao, gì, đâu, bao giờ,
khi nào, …là những từ hư.
1.2.
Thực từ
dùng để tạo ra những hành vi miêu tả, tường thuật, thông báo, nhận
định… không mang sắc thái nghĩa. Ví dụ:
(1) Ba mua một căn hộ ở chung
cư.
(2) Kỳ thì đại học năm nay
khó.
(3) Loại thịt này giá 50 ngàn một ký.
2.
Từ hư: những tác tử tạo
nghĩa
2.1.
Có nhiều từ hư đồng âm với
thực từ. Ví dụ: Những
động từ đi, lại,
có, với,…đồng âm với các từ hư: đi (Cô
nói đi! Đời nào mẹ lại đi ghét con! Cộng các thứ, vị chi đi đứt 4 triệu.), lại (Có phải duyên nhau thì thắm lại.) (HXH), có (Loại thịt này giá có 50 ngàn một ký.), với
(Con với chả cái; Cho
tôi đi với.)… Trong những
trường hợp này, đây là sự chuyển hóa
nghĩa của động từ mà thành từ hư, là sự
chuyển nghĩa nhận thức của thực từ. Một
đặc điểm lô gích ngữ nghĩa của các từ
hư tiếng Việt là có sự chuyển nghĩa từ
nghĩa gốc sang nghĩa phái sinh. [10:304]
2.2.
Nghĩa
miêu tả và nghĩa nhận thức
Nghĩa miêu tả là
nghĩa được thấy trong các từ điển
giải thích mà chúng ta thường gọi là nghĩa từ điển. Nghĩa miêu tả của hai từ đi
và lại được
[18], định nghĩa như sau:
(1) Đi là “tự di chuyển bằng những động
tác liên tiếp của chân, lúc nào cũng vừa có chân tựa
trên mặt đất vừa có chân giơ lên đặt tới
chỗ khác.”
(2) Lại là “Di chuyển ngược chiều với sự
di chuyển vừa nói đến trước đó.”
Nghĩa
nhận thức của một từ cơ bản là
nghĩa mà từ trong tâm thức người Việt nhìn ra
và khái quát lên từ nghĩa miêu tả của từ đó. Nghĩa
này không
được miêu tả trong những từ điển
giải thích. [10:306]
Hai động từ đi và lại thể hiện sự chuyển động
trong không gian. Trong tâm thức người Việt, hai từ
này đối lập cơ
bản với nhau về hướng
vận động, và đều là di chuyển trong không
gian. Chỉ sau khi ra đi mới có hành động
trở lại. Do vậy đi là hành động chuyển
động thuận xuất phát từ một gốc, còn lại là hành động chuyển
động ngược tương ứng trở lại
gốc đã ra đi. Hơn nữa từ
trong sâu thẳm tâm thức, đi
là một chuyển động có mục đích. Bởi lẽ từ thuở hồng
hoang, con người luôn luôn phải đi tìm cái ăn và chống
chọi với thiên nhiên hoang dã để tồn tại,
đã đi là có mục
đích. Nghĩa nhận thức
của đi và lại như sau [10:306]:
(I) Đi = chuyển động +
dời khỏi gốc (/mốc) + có mục đích
(II) Lại = chuyển
động + (hướng) trở lại gốc (/mốc)
Với hai nghĩa này,
chúng tôi đã giải thích được sự hình thành tất
cả các nghĩa của đi
và lại ghi trong TĐTV.
[8], [9], [10:306,311-334]
2.3. Khái niệm
tác tử
Chúng ta hiểu tác tử theo nghĩa
thông thường trong logic “tác
tử là yếu tố tác động vào một phán đoán
sẽ tạo ra một phán đoán mới”. Ví dụ các tác tử phủ định (~), tuyển
(Ú), hội (Ù), kéo theo (Þ).
Trong ngôn ngữ, từ hư là những tác
tử. Đó là những yếu tố tác động vào một
câu sẽ được một câu mới với nghĩa mới,
một hành vi ngôn ngữ mới. Đó là những hàm ngôn
(tiền giả định), những hàm ý. Có những loại tác tử sau: tác tử đơn; tác tử kép tức là cặp tác tử; tác tử là những
cấu trúc trừu tượng.
2.4.
Tác tử đơn
Đó là những tác tử tác động
vào một câu đơn. Như:
có thể, cũng, vẫn, chỉ, có, mà, những, cơ, kia, lại…
Ví dụ:
Từ những câu (1) – (3) thể hiện
hành vi miêu tả, tường thuật, nhận định
trên đây, chúng ta có hàng loạt câu mới với những
nghĩa mới hoặc thể hiện những hành vi ngôn
ngữ mới.
Dùng tác tử cũng tạo ra một câu có TGĐ là một phép
so sánh: Kỳ thì đại học năm nay cũng khó; Loại thịt này
giá cũng 50 ngàn một ký.
Dùng tác tử
có thể để tạo
ra hành vi nhận định tình
thái: Ba có thể mua một căn
hộ ở chung cư; Kỳ thì đại học năm
nay có thể khó.
Dùng tác tử đấy chứ hay chứ
bộ (phương ngữ Nam Bộ) để tạo
ra hành vi tường thuật bác
bỏ một tiền giả định ngầm ẩn:
Ba mua một căn hộ ở chung cư chứ bộ [/đấy chứ]; Kỳ thì đại
học năm nay khó chứ bộ
[/đấy chứ].
Dùng tác tử cơ, kia thể hiện hành vi đề nghị có hàm ý từ chối một yêu
cầu ngầm ẩn
là tiền giả định của
câu: Ba mua một căn hộ ở chung cư cơ [/kia]; Loại thịt
này giá 50 ngàn một ký cơ
[/kia].
Câu (2) là một nhận định nên
không có hành vi từ chối.
Dùng tác tử mà đảo hướng nghĩa để tạo
ra hành vi chất vấn bác bỏ
một tiền giả định thể hiện hành vi nhận
định:
Ba mà mua
một căn hộ ở chung cư (!/?); Kỳ thì đại
học năm nay mà khó; Loại thịt này giá mà 50 ngàn một ký.
Có thể tạo ra hành vi chất vấn bác bỏ một
khẳng định bằng những tác tử đâu có, sao được, làm
gì. Ở đó đâu có bác
bỏ sự tồn tại, sao
được bác bỏ khả năng, làm gì bác bỏ mục đích. Ví dụ:
Ba đâu có
mua một căn hộ ở chung cư; Ba mua một biệt
thự sao được! Nó
nói dối anh làm gì. Kỳ
thì đại học năm nay đâu
có khó; Loại thịt này
giá 50 ngàn một ký sao được.
Trong câu (3) có từ số lượng 50
nên có thể dùng tác tử những,
có, kia, thôi để đánh giá mức độ nhiều
ít, cao thấp của số lượng này.
Loại thịt này giá có 50 ngàn một ký » Loại thịt này giá 50 ngàn một ký thôi; Loại thịt này giá những 50 ngàn một ký » Loại thịt này giá 50 ngàn một ký kia.
Có thể dùng từ
hư để tạo ra hành vi mệnh lệnh. Chúng
ta giải thích được con đường hình thành
nghĩa mệnh lệnh, cầu khiến cho những câu mệnh
lệnh dùng từ hư. Ví dụ:
Nói đi! Dừng xe lại! Giơ tay lên! Ngồi xuống! Gấp sách lại! Mở vở ra!...
Thật vậy, nội
dung của một hành vi mệnh lệnh là “thực hiện
hoặc không thực hiện một
hành động A nào đó”. Những cặp hành động
đứng và đi, đứng và ngồi; mở
và gấp… đối lập
với nhau về một phương diện nào đó.
Như động và tĩnh (trong nói/không nói), phương
thẳng đứng (trong đứng lên/ngồi xuống),
đối tượng ở không gian mở hay khép (trong gấp/mở)... Người ta chỉ ra lệnh
thực hiện một hành động A khi nó (A) chưa được thực
hiện. Vậy thì, mệnh lệnh thực hiện hành
động A có điều kiện cần là có TGĐ “A
chưa xảy ra”. Ra lệnh hoặc cầu khiến
thực hiện A nghĩa là yêu cầu đối tượng
thực
hiện hành động chuyển
từ trạng thái đối lập sang trạng thái A.
Từ đi có nét nghĩa
chuyển động, nên nó được dùng để
ngôn từ hóa hành vi cầu khiến, mệnh lệnh thành cấu
trúc “A đi!” để “biểu thị ý mệnh lệnh
hoặc đề nghị, thúc giục một cách thân mật”
[18: mục Đi II]: Chúng ta đi chơi đi! Im
đi! Tranh thủ nghỉ đi cho lại sức. Nhanh lên
đi nào! Ta cứ yêu đời đi! (Như lúc ta còn
thơ). Ông giáo hút trước đi. (NC)… Nếu mệnh lệnh là “không tiếp tục thực
hiện một hành động A nào đó” thì một điều
kiện cần là có TGĐ đối tượng “đang ở trạng thái hoạt
động A” và mệnh
lệnh này yêu cầu chuyển A trở lại trạng
thái tĩnh đối lập như lúc trước. Lại là chuyển động
trở lại gốc ban đầu nên động từ lại chuyển nghĩa thành từ
hư lại với
nghĩa “trở về trạng thái ban đầu”. Do vậy,
lại được dùng
để ngôn từ hóa hành vi mệnh lệnh “không tiếp
tục thực hiện hành động
A” thành cấu trúc “A lại!” như: Ngừng lại!
Dừng xe lại! Đứng lại! Chạy chậm lại!
Lùi lại!... Tương tự, Gấp sách lại!, Mở
vở ra! đều là những mệnh lệnh yêu cầu
đối tượng thực hiện hành động chuyển
sang trạng thái đối lập trước đó (“gấp”
có TGĐ đối tượng đang ở tình trạng
mở nên Gấp vở lại!
Gấp màn lại! Gấp chiếu lại! là những mệnh
lệnh yêu cầu chuyển đối tượng sang tình
trạng khép). Hoàn toàn
tương tự cho Đứng
lên! và Ngồi xuông! Mở cửa ra! và Đóng
cửa lại!
2.5.
Nhiều tác tử trong một câu
2.5.1.
Nhiều tác tử đồng hướng
nghĩa trong một câu sẽ
tạo ra những câu đồng nghĩa. Xem [4]. Ví dụ:
Loại thịt này giá có 50 ngàn một ký » Loại thịt này giá có 50 ngàn một ký thôi.
Loại thịt này giá những 50 ngàn một ký » Loại thịt này giá những 50 ngàn một ký kia.
2.5.2.
Nhiều tác tử không đồng
hướng nghĩa tác động vào một câu sẽ làm phong phú nghĩa của câu theo
nghĩa của từng tác tử. Ví dụ: Từ câu (3)
chúng ta được những câu:
(3)
Loại thịt
này giá 50 ngàn một ký.
(3a) Loại thịt này giá cũng 50 ngàn một ký.
(3b) Loại thịt này giá những 50 ngàn một ký.
(3c) Loại thịt này giá cũng những 50 ngàn một ký.
(3d) Loại thịt này mà giá cũng những 50
ngàn một ký.
Câu (3a) là một hành vi thông báo có hiển ngôn như câu (3) và có TGĐ là một
sự so sánh. Câu (3b) là một hành vi đánh giá. Nó cũng có hiển ngôn như câu (3)
nhưng còn thêm hàm ý: người
nói câu này cho rằng giá 50 ngàn một ký là cao.
Câu (3c) có từ cũng
như (3a), có từ những
như (3b) nên nghĩa của câu này là nghĩa của hai
câu trên gộp lại: hiển ngôn như câu (3), có TGĐ là
một sự so sánh như câu (3a) và là một hành vi đánh giá như câu (3b) người nói cho rằng giá
50 ngàn một ký là cao.
Câu (3d), so với câu (3c), có thêm từ
mà là “một tín hiệu của cấu
trúc nghịch nhân quả” [7]. Do vậy nó đảo hướng
đánh giá của người nói, được từ
vựng hóa bằng từ “lẽ ra” và tạo ra một
hàm ý mới. Nghĩa của (3d) = nghĩa của (3c) +
lẽ ra giá không cao như vậy» loại
thịt này giá 50 ngàn một ký, có TGĐ là một sự so
sánh, là một hành vi đánh giá người
nói cho rằng giá 50 ngàn một ký là cao và lẽ ra giá không cao như vậy.
2.6.
Tác tử kép hay
là cặp tác tử
Đó
là những tác tử tác động vào một câu ghép hay câu phức.
Đây là những cặp từ nối (liên từ) biểu hiện quan hệ
nhân quả hoặc nghịch nhân quả.
2.6.1.
Cặp tác tử trong cấu trúc nhân quả
2.6.1.1. Theo truyền
thống Việt ngữ học có những cặp liên từ
thể hiện những quan hệ điều kiện-kết
quả (nếu – thì, bao giờ – thì ), nguyên nhân-kết quả
(vì – nên), quy luật nhân quả
(khi – thì/là, hễ - là, cứ - là, động – là),
giả định-kết quả (giá – thì).
Những
kiểu quan hệ khác nhau trên
đây có một đặc điểm chung mà chúng tôi gọi là quan hệ nhân quả, một quan hệ
bao chứa những quan hệ
trên. Hai hiện tượng x
và y có quan hệ nhân quả
là khi xảy ra hiện tượng
x thì sẽ xảy ra hiện tượng y . Nghĩa là:
(III) x
Þ y
Cấu trúc lô gích (III) có nhiều
biến thể ngôn ngữ khác nhau: Nếu … thì…; Vì … nên…; Bởi vì…nên…; Do … mà..; Khi… thì…; Hễ …thì/là…; Cứ … là…;
Động … là….
2.6.1.2. Trong giao tiếp, con
người luôn luôn có nhu cầu
suy luận, lập luận và những lối nói có
HVNN gián tiếp. Công cụ logic hình thức chủ yếu phục
vụ cho những mục đích này là hai tính chất của
phép kéo theo [(x Þ y)
Û
(~y Þ ~x) Û
(~x ) Ú y)] và các tam đoạn luận MP, MT, HS và DS:
(MP)
modus ponens: (( x Þ
y) Ù
x) Þ
y
(MT) modus tollens: (( x Þ
y) Ù
~ y) Þ ~ x
Tam
đoạn
luận giả thiết HS (hypothetical
syllogism), còn gọi là tam đoạn
luận bắc cầu: (HS) [(x
Þ y) Ù (y Þ z ) ] Þ ( x Þ z)
Tam đoạn luận tuyển DS
(disjunctive syllogism):
(DS) [( x Ú y) Ù
~ x)] Þ
y
, cũng tức là [( x Ú y) Ù
~ y)] Þ
x
“Trong ngôn ngữ tự nhiên, loại
câu nhân quả “Nếu x thì y”, “Vì
x nên y”
… có thể được hiểu x đồng thời là điều kiện đủ
của y (x Þ y)
đồng thời là điều
kiện cần của y (~x Þ ~y) ” [7:238].
Giải
thích: Vì (x Þ y) Û
(~y Þ ~x), mà x chỉ có hai khả năng x hoặc
~x (theo luật bài trung)
nên từ ~x sẽ chỉ suy ra ~y. Do vậy x
được hiểu là điều kiện đủ duy
nhất của y. Nghĩa
là chúng ta có tam đoạn luận
đặc
thù của ngôn ngữ tự nhiên MV:
(MV) (( x Þ y) Ù ~x) Þ
~y
Từ các TĐL trên đây
kết hợp với các quy luật
tiếng Việt như “Có
phương thức bác bỏ bằng cách chất vấn.”
[7: 391-403]; “Tác động tới yếu tố phiếm định
là tác động tới tất cả.” [6] chúng ta chứng
minh được những cách dùng các tác tử nếu, thì, mà tạo thành những lối nói có hàm ý và những
HVNN gián tiếp như thề
bồi, khuyên nhủ, can gián, cảnh báo, đe dọa, cấm
đoán, khẳng định…Ví dụ: “Tôi mà
nói dối thì tôi làm con cho
anh.” (®
Tôi không nói dối); “Thả hết ra thì còn mặt mũi nào.”
(NMT) ®
không nên thả hết ra; “Mày mà thi trượt đại học
thì đừng có trách.” (®
mày phải thi đậu đại học); “Cứ thế
này thì có mà đi ăn mày.” (NC, Đời
thừa) (® không thể như thế này
mãi được); “Nếu ngài không ra tranh cử thì còn ai nữa? (Giông tố)
(®
ngài nên ra tranh cử) ; “Nếu
cô ta là người mẫu thì
mày thành hoa hậu mất.” (®
cô ta không thể là người mẫu được);
“Theo chị, em càng ghen vô lối như thế thì chồng càng chán em.
Mà càng chán em thì nó càng có
lý do để đi với bồ.” (®
Em đừng ghen vô lối như thế); “Cái Hiên mà hát thì người ta tưởng
tao đang bóp cổ nó.” (® Cái Hiên hát tiếng
the thé ®
rất dở); “Nếu mày bán mảnh đất
hương hỏa của dòng tộc thì cầm dao đâm chết tao đi đã.” (®
Mày không được bán mảnh đất hương hỏa)…
2.6.2.
Cặp tác tử trong cấu trúc nghịch
nhân quả
2.6.2.1. Quan hệ nghịch nhân quả là một
quan hệ trái ngược với
lẽ thường về quan hệ nhân quả. Giả sử giữa hai
đối tượng X và Y có quan hệ nhân
quả A Þ B, nghĩa là khi X ở
trạng thái A thì Y sẽ ở trạng
thái B. Thông thường là như thế.
Nhưng trong thực tế cũng có những
trường hợp trái nghịch với lẽ
thông thường ấy: X đã ở trạng
thái A mà Y chưa ở trạng thái B,
hoặc X chưa ở trạng thái A nhưng Y
đã ở trạng thái B. Lúc đó, chúng
ta nói giữa X và Y đã xảy ra quan
hệ nghịch nhân quả (NNQ). Có những hình thức
ngôn ngữ khác nhau phản ánh quan hệ NNQ.
Cấu trúc tổng quát là kiểu câu NNQ
“tuy…nhưng (mà)…” được
giới Việt ngữ học gọi là nhượng bộ
tăng tiến, như [16], [24]. Có hai kiểu NNQ. Đó là
NNQ sớm và NNQ muộn [5]. Ở hai kiểu quan hệ này
có những cặp từ đặc trưng khiến ta có
thể lược bớt các từ tuy…nhưng (mà)… Nói cách khác:
Cấu trúc NNQ sớm
được đặc trưng bằng những cặp
tác tử:
(IV) Còn A (mà)
đã B; mới A (mà) đã B; chưa A (mà) (cũng) đã B
Cấu trúc NNQ muộn
được đặc trưng bằng những cặp
tác tử:
(V) Đã
A (mà) vẫn B; đã A (mà) còn B; đã A (mà) (cũng)(vẫn)
chưa B
Những câu chứa các cặp từ
trên (có thể lược bớt từ hư thứ nhất)
luôn luôn có lược đồ nghĩa khái quát là lý lẽ:
B xảy ra là quá sớm (IV) hoặc quá trễ (V). Tùy nội dung cụ thể
của A và B mà lược đồ nghĩa này trở
thành những hàm ý xác định.
Ví
dụ: “Chưa khỏi rên đã quên thầy.” (® B xảy
ra là quá sớm ® nói về loại người sớm
vô ơn); “Mới ngày nào mái
tóc còn xanh, mà nay đã phơ
phơ đầu bạc” (®B xảy ra
là quá sớm ® thời gian trôi nhanh quá); “Hôm qua còn theo anh/Đi ra đường
quốc lộ/ Hôm nay đã
chặt cành/ Đắp cho người dưới mộ”
(Hoàng Lộc) (®B xảy ra là quá sớm ® anh
hy sinh đột ngột quá); “Giờ này mà
nó vẫn chưa đến.” (® B
xảy ra là quá trễ ® Lẽ ra nó phải
đến trước giờ này khá lâu rồi); “Sắp đánh nhau rồi mà còn
đi mua táo, [kháng chiến gì những người này]” (NHT)
(®B xảy ra
là quá trễ ® người ta có thể
đi mua táo vào lúc nào chứ
lúc này (sắp đánh nhau rồi) thì không được
đi mua táo.”
2.7. Tổ hợp những từ
hư: cấu trúc trừu tượng hay là lược đồ siêu ngôn ngữ
2.7.1.
Cấu trúc trừu tượng
(CTTT): khái niệm
Một cấu
trúc chỉ chứa những yếu tố trống nghĩa
và những từ hư sẽ gọi là một CTTT.
Trong tiếng Việt
có những câu là những cấu trúc trừu tượng. Chúng
tôi đã chứng minh rằng
trong tiếng Việt có những CTTT độc lập với
ngữ cảnh và mang những nghĩa xác định. “Ở
những kiểu câu nhất định thì có những kiểu
hàm ý nhất định mà chúng ta có thể khái quát thành
sơ đồ” [7:243].
Sơ đồ này chính là cấu trúc trừu tượng.
Ví dụ: “A thì A”; “A mà lại”; “Không A thì
cũng B”; “A gì mà B thế?”; “A không X thì còn ai X”; “A mà X thì còn ai
không X”; “V thế [/vậy] mà
được?” (với V là động từ); “A mà
cũng B à?”; “A mà lại thế”; “Đến A
mà cũng B?”…Trong những câu trên, A, B, V là những yếu tố trống nghĩa, những yếu
tố còn lại là những từ hư. Vì vậy chúng là
những CTTT và cũng được gọi là lược đồ cấu trúc.
Những CTTT là những cấu trúc siêu ngôn ngữ.
2.7.2.
Lược đồ nghĩa
Vì một lược
đồ cấu trúc chỉ bao gồm những yếu tố
trừu tượng nên nghĩa của chúng là những nghĩa khái quát, độc lập với ngữ
cảnh và được gọi là lược đồ nghĩa. Mỗi khi những yếu tố
trừu tượng được từ vựng hóa bằng
những từ ngữ cụ thể thì lược đồ
nghĩa mới trở thành những nghĩa xác định.
Tác
tử thì có vai trò quan trọng
trong việc hình thành những lược đồ
nghĩa. Ví dụ:
(1) “A
(x) thì A”, ở đó x là một từ phiếm
định sao, mấy, gì,
đâu, nào … Đây là hành vi chấp nhận A ở mức cao
hơn, một hành vi bất chấp A.
(2) “A thì có!”, Đây là hành
vi bác bỏ một TGĐ ngầm
ẩn B trái ngược với A.
(3) “Không A thì cũng B” là một hành vi
đánh giá, thể hiện sự
khẳng định A hoặc khẳng định B ở
mức thấp hơn mức A một chút. Nó không phải
là một câu điều kiện-kết quả, tuy về
hình thức thì có vẻ như vậy. Chẳng hạn “Không
thành công thì cũng thành nhân.” hay “Đi xe bạt mạng
như thế, không sớm thì
muộn cũng bị tai nạn giao thông.” ®
sẽ bị tai nạn sớm hoặc bị tai nạn muộn
® tất yếu sẽ bị tai nạn
giao thông.
(4) “A thì cũng x” là một hành vi bác
bỏ, không chấp nhận ảnh hưởng hoặc vai
trò của A (hoặc hệ
quả suy ra từ A) tới sự việc x sẽ xảy ra.
(5) “A không x thì còn ai [/B nào] x (nữa)?” là hành vi khẳng định A ở cực
cấp mức độ x.
Ví dụ : 1) “Formosa không hủy hoại môi trường thì
còn công trình nào hủy hoại môi trường nữa?” 2) “Cô ấy không Hoạn Thư thì
còn ai là Hoạn Thư nữa?”
(6) “A
mà lại” là hành vi giải
thích: A được dùng để giải thích cho một
điều đã nêu trước đó.
(7) “A gì mà lại B (thế/vậy)” là hành vi khẳng định đối
tượng này không xứng
đáng là A.
Lược đồ
(7) trên đây có một TGĐ là đã xảy ra sự kiện
B ở đối tượng là A. Dựa trên lý lẽ ngầm
ẩn “A sẽ dẫn tới kết quả không B” trong lược đồ
đó mà chúng ta suy ra lược đồ nghĩa là hành vi
khẳng định.
Trong CT trên, nếu lược bớt một trong hai từ
“mà” hoặc “lại” hàm ý của
nó vẫn vậy. Hai câu “A gì mà B thế”, “A gì lại B thế”
đều có hàm ý “đối tượng này không đáng là
A”.
Lưu
ý: Ở cấu trúc trên, nếu cuối câu đặt dấu
hỏi thì nó là câu hỏi thực sự. Ví dụ: “Ân oán cá
nhân gì mà lại hành hạ nhau như thế?” (ACMXE) “Chuyện
gì mà lại không gặp nhau thế?” (TLMN, 4.2012, HTV)
2.7.3. CTTT và
quán ngữ
2.7.3.1. Khái niệm quán ngữ (habitual
collocation). Quán ngữ được định nghĩa là
“Những cụm từ được dùng lặp đi lặp
lại trong các loại văn bản để liên kết,
đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội
dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi phong cách
thường có những quán ngữ riêng. […] của đáng tội, nói khí vô phép… thường
được dùng trong phong cách hội thoại. […] có thể
nghĩ rằng, nghĩa là… thường
được dùng trong phong cách sách vở. […] quán ngữ
chiếm vị trí trung gian giữa cụm từ tự do
và các kiểu cụm từ cố định.” [14:436-437]
2.7.3.2.
Có những CTTT một khi bỏ đi các yếu tố trống
nghĩa các từ hư còn lại kết hợp với
nhau thành quán ngữ. Ví dụ: có những CTTT sau:
“A
đấy
chứ [/chứ bộ]” là hành vi khẳng định
A để bác bỏ một TGĐ là lời khẳng định
ngầm ẩn B;
“Vả
lại A” , “Hơn nữa A” là những
hành vi bổ sung chứng cứ
A cho một lập luận.
“Thì
ra A” là hành vi xác nhận,
bộc lộ một phát hiện A mới mẻ
trong nhận thức. Với
“ý nghĩa “bộc lộ, phát hiện” từ ra
kết hợp với một số động từ tạo
ra hàng loạt quán ngữ thể hiện ý nghĩa “phát hiện”
trong nhận thức: té ra, hoá
ra, thì ra là, thế ra…tổ hợp ra với danh từ cũng tạo ra ý nghĩa “bộc
lộ, làm cho thấy”: ra bộ,
ra vẻ, ra tay, (thiên vị)
ra mặt, ra cái điều, ra
đầu ra đũa, ra môn ra khoai… xem [7:346]
“Thì ra đến lúc cùng, lão cũng có thể
làm liều như ai hết.” (Lão
Hạc, NC); “Phải đến khi truyện Lão Hạc khép lại, ta mới
thấy ớn lạnh: thì ra
toàn bộ câu chuyện là một cuộc chuẩn bị
để chết của một con người!” (CVS)
“Có điều A” là hành vi điều chỉnh, giới hạn lại phạm vi, mức độ một điều B đã nêu trước đó. Ví dụ: 1) “- Thôi được! Nếu con đã nói vậy mẹ cũng không cấm cản. Chỉ có điều, con đừng bao giờ quên những lời hứa của mình.” (NNA) [®Điều chỉnh hành vi cho phép.]; 2) ‘‘…Cách viết của ông bao giờ cũng khuôn thước, cổ điển, mà lại tự nhiên ‘‘không bày tỏ dấu hiệu nào của sự cố gắng”. […] Có điều, […] sự trong sáng ‘‘có vẻ như một sự tình cờ nhờ may mắn mà có’’ ở Môôm thật ra cũng là sự trong sáng mà ông phải nỗ lực rất nhiều mới đạt tới’’ (Lời giới thiệu, Mưa) [® điều chỉnh lại nhận thức]
Trong những CTTT trên, những chuỗi
từ hư còn lại đều là những quán ngữ: đấy chứ, chứ bộ,
vả lại, hơn nữa, thì ra, thì
ra là, té ra, hoá ra, thế ra, ra bộ,
ra vẻ, ra tay, (thiên vị)
ra mặt, ra cái điều…
2.7.3.3. (Người mà) đến thế thì thôi (Truyện Kiều)
Có thể giải
thích được lý do hình thành những quán ngữ vừa
trình bày qua các từ hư trong đó. Trước hết, chúng
ta quan sát thêm trường hợp của ĐẾN.
Trong [18]
nghĩa thứ III của “đến” là một trợ từ.
Tính có lý do của những quán ngữ ghi trong [18] đều
liên quan đến nghĩa nhận thức của động
từ đến đã chuyển
hóa thành từ hư đến.
Hai
động từ đến và
tới nhìn thoáng qua thì đồng
nghĩa, chúng có thể thay thế cho nhau trong mọi câu mà
nghĩa hầu như vẫn vậy. Nhiều từ điển
tiếng Việt dùng từ tới
để giải thích từ đến,
như [26], [13]. Tuy nhiên đến nỗi, đến
cùng, đến điều, đến nơi được
ghi thành những mục từ trong [18] nghĩa là ở
đó đã coi chúng là những tổ hợp từ cố
định nhưng không có mục từ tương ứng
với từ tới. Trong
tâm thức người Việt thì tới là chuyển động hướng tới một đích còn đến là chuyển động
đi tới tận cùng
đích đến. Do vậy, nghĩa nhận thức của
từ ĐẾN là:
(VI) Đến = chuyển động
+ tới tận đích
Từ quan hệ không
gian chuyển động “tới tận đích” này đã
hình thành một quá trình chuyển nghĩa dẫn tới định
hướng nghĩa của từ hư đến trong nhận thức của chúng ta. Đến đích là đến
điểm cuối cùng của chuyển động. Mà điểm
cuối là cực điểm nên đến
đích sẽ chuyển thành đến
cực điểm (cao nhất hoặc thấp nhất), điểm cuối của kết quả, của sự
kiện x. Đến đích
đỉnh là thành công và được đánh giá rất
cao. Đến đích đáy
là thất bại và bị đánh giá rất thấp. Như
vậy, trong tâm thức người Việt, cụm từ
“ĐẾN + x” luôn luôn tạo ra nhận thức “x là mức
độ rất cao [/rất thấp] nếu không muốn
nói là cao nhất [/thấp nhất]”. Tùy ngữ cảnh điều
này trở thành những hàm
ý thích hợp.
Do vậy hàng loạt
cấu trúc “ĐẾN + x” trở thành quán ngữ và
được miêu tả như một đơn vị từ
điển. Ví dụ: đến
nỗi, đến cùng, đến điều, đến
nơi [18]; đến đỗi,
đến điều, đến mức; đến nỗi,
đến nước, đến sức [13]. Trong những
cụm từ “đến x” như đến lạ, đến là, đến lắm,
đến phải, đến thế, đến nước,
có đến, không có đến… từ đến luôn luôn tạo ra định hướng
nghĩa “x ở mức độ rất cao”.
Có thể
giải thích được định hướng
nghĩa của những quán ngữ trên. Ví dụ: đến nỗi. Danh từ nỗi có sắc thái âm tính còn niềm có sắc thái
dương tính: nỗi buồn,
nỗi khổ, nỗi nhớ, nỗi bất công…nhưng
niềm vui, niềm hạnh
phúc,niềm hy vọng, niềm tự hào… Kết hợp đến với nỗi
sẽ tạo ra cấu trúc “A đến
nỗi x” luôn luôn có nghĩa là “x là mức độ âm
tính rất cao của A” , nếu không muốn nói đó cực
điểm. Ví dụ: “Nhỏ đến
nỗi tưởng như con gà gáy to ở đầu
đảo, cuối đảo cũng nghe thấy (NK)”, “Mê trò chơi điện tử
đến nỗi quên ăn
quên ngủ”.
Dù là danh từ hay động từ
khi kết hợp với đến
cũng đều tạo ra nghĩa như vậy: “Cuộc
ăn vạ này, chúng làm hại lão ta đến hơn trăm bạc.” (NTT) [® hại rất nhiều]. “Đến
ông ấy cũng không quyết được việc này” [® ông
ấy là người có thẩm quyền rất cao, thậm
chí cao nhất, trong những người có khả năng
quyết được việc này ® việc này cực kỳ khó quyết
định]. “Đến cậu
mà cũng nói như thế à?” (RCC) [® cậu
là hạng người ở mức độ cao nhất
không nói như vậy ®
cậu nói như thế làm tôi ngạc nhiên]. “Con lo cho mẹ
lắm. Đến như
con mà cũng bị mẹ
quyến rũ” (TCTT) [® con gái
ở mức độ thấp nhất bị mẹ quyến
rũ ® mẹ vô cùng quyến rũ.] “Đồ
ngu! – tôi nói – Thôi phóng đi. Có những người đến lạ!” (Giamilia). [® rất lạ thường ® rất ngu]; “Cái phố ấy đến lắm nhà” (LBC) [® rất lắm nhà]. “Con bé đến ngoan” [® rất ngoan]. “Đến mai Ba mới về” [®còn rất lâu Ba mới về]. “Không chỉ
có hối hận suông, tôi còn cắn tay đến chảy cả máu” (NLMĐ) [® cắn rất mạnh ® rất hối hận]. “Dại đến nước ấy thì hết nói” [ ® rất dại]. (Một đám cưới
đời sống mới) “Không có complê, áo dài… Không có đến một đám
rước dâu, dù là một đám rước dâu cưới
chạy vào giữa nửa đêm như đám cưới
của Cục và Bính ngày nào.” [® rước dâu là nghi thức tối
thiểu trong một lễ cưới) (TCTT); “Nom đến
bướng bỉnh” [®
rất bướng bỉnh]. “Nhưng nó chưa kịp
đáp câu hỏi tẹp nhẹp, thì hàn Thưởng đã
cau mặt cự vợ: Đàn bà đến vớ
vẩn” (TTTS) [®
cực kỳ vớ vẩn]; ‘Bà lão nhìn thị và bà nghĩ:
Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình.’ (KL) [® con mình ở mức rất thấp một
phụ nữ có thể chấp nhận]. Tôi ngồi đây
đến một tiếng
đồng hồ rồi.[® một tiếng đồng hồ là rất
nhiều theo quan điểm của người nói]. “Ông ấy
có đến 7 người
con” [®
có rất nhiều con]. “Họ kéo nhau lên UB, (có) dễ đến 40 người” [® rất nhiều người ® người nói cho rằng kéo nhau lên UB
40 người là rất nhiều…] Lo đến phát ốm. Học đến quên ăn quên ngủ…
Tới đây chúng ta dễ
dàng giải thích được vì sao “A đến thế thì thôi”
là hành vi đánh giá A ở mức độ cực điểm.
“Thế”
một đại từ hổi chỉ một sự kiện,
khi kết hợp với đến
thì đến thế có hàm ý rằng sự kiện
đó ở cực điểm. Thôi
là ngừng, là kết thúc không còn gì để đánh giá,
bàn luận, cũng là cực điểm thấp. Kết quả là đến thế thì thôi, một quán ngữ thể
hiện hành vi đánh giá một
sự kiện ở mức độ cực điểm,
không có gì để nói, để bình luận nữa: Sướng đến thế thì thôi; Khốn nạn đến thế thì thôi; Người mà đến thế thì thôi. (Đời
phồn hoa cũng là đời bỏ đi!) (Truyện Kiều)
Tài liệu
tham khảo
1.
Diệp Quang Ban, 2005, Ngữ pháp tiếng Việt,
nxb Giáo Dục
2.
Nguyễn Tài Cẩn, 1975, Ngữ pháp tiếng Việt, Tiếng
– từ ghép – đoản ngữ, nxb ĐH&THCN,
3.
Đỗ Hữu
Châu, 1981, Từ vựng ngữ
nghĩa tiếng Việt, nxb Giáo dục
4.
Nguyễn Đức Dân, 1984a, Ngữ
nghĩa các từ hư: Định hướng nghĩa của
từ, NN, số 2
5.
Nguyễn Đức Dân, 1984b, Ngữ
nghĩa các từ hư: Nghĩa của cặp từ, NN, số
4
6.
Nguyễn
Đức Dân, 1985, Một số phương thức thể
hiện ý tuyệt đối, NN, số 3.
7.
Nguyễn Đức Dân, 1996, Lô gích và tiếng Việt, nxb
Giáo dục
8.
Nguyễn Đức Dân, 2010,
Con đường chuyển nghĩa của từ cơ bản:
Trường hợp của LẠI, Ngôn ngữ, số 11
9.
Nguyễn Đức Dân, 2013,
Con
đường chuyển nghĩa của từ ĐI, 42 – 46, 84,
Từ
điển học và Bách khoa thư, số 60
10. Nguyễn Đức Dân, 2016, Logic-ngữ nghĩa từ hư tiếng Việt, nxb
Trẻ
11. Lê Đông, 1992, Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hư từ: siêu ngôn ngữ và hư từ tiếng Việt , NN ,
số 2
12. Đinh
Văn Đức, 1986, Ngữ pháp tiếng Việt: từ
loại, nxb ĐH &THCN
13. Lê Văn Đức, 1970, Việt Nam tự điển (VNTĐ), Lê Ngọc Trụ (hiệu
đính), nhà sách Khai Trí, Sài
Gòn
14. Nguyễn Thiện Giáp, 2016, Từ điển khái niệm
ngôn ngữ học, ĐHQG Hà Nội
15. Cao Xuân
Hạo, 1991, Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp
chức năng, nxb KHXH
16. Trần
Trọng Kim (& Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm), 1943, Việt Nam văn phạm, bản
in lần thứ tư, Hà Nội
17. Lê
Văn Lý, 1949, Le parler vietnamien, Hương Anh, Paris
18. Hoàng
Phê (chủ biên), 1992, Từ
điển tiếng Việt, (TĐTV),
Viện
ngôn ngữ học,
19. Nguyễn
Kim Thản, Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt,
tập I, 1963 & tập
II, 1964, nxb Khoa Học, Hà Nội
20. Đỗ
Thanh, 1998, Từ điển từ
công cụ tiếng Việt , nxb GD, Hà Nội
21. Nguyễn
Minh Thuyết &Nguyễn Văn Hiệp, 2004, Thành phần câu tiếng Việt,
nxb GD
22. Bùi Đức Tịnh, 1968, Văn phạm Việt Nam, giản dị và thực dụng,
Trung tâm học liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn
23. Bùi Minh
Toán, 2013, Hư từ tiếng Việt – tiếp cận tích
hợp từ lý thuyết ba bình diện, NN ,số 3
24. Hoàng Tuệ, 1962, Giáo trình về
Việt ngữ, tập 1, Hà Nội
25. Phạm Hùng Việt,
2004, Trợ từ trong tiếng
Việt hiện đại, nxb KHXH, Hà Nội
26. VNTĐ: Việt Nam tự
điển, 1931, Hội Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội.
Nguồn dẫn liệu (tác giả
và tác phẩm)
ACMXE – Anh chẳng muốn xa em, phim
VTV3; CVS – Chu Văn Sơn; HXH - Hồ
Xuân Hương, Mời trầu; KL –
Kim Lân, Vợ nhặt; LBC –
Lý Biên Cương; NC – Nam Cao, Lão
Hạc; NHT – Nguyễn Huy Tưởng, Những người ở lại; NK – Nguyễn Khải,
Chúng tôi ở Cồn Cỏ; NLMĐ – Nghìn lẻ một
đêm (truyện dịch); NMT – Nguyễn Mạnh Tuấn,
Cù lao Tràm; NNA – Nguyễn Nhật Ánh, Bong bóng lên trời; NTT – Ngô Tất Tố, Một
cuộc ăn vạ; PTH – Phạm Thị
Hoài, Cam tâm; RCC – Rừng chắn cát, phim VTV3; TCTT – Thời
của thánh thần; TLMN –Thay
lời muốn nói; TYSCT: Tình yêu sau chiến tranh;
VTP – Vũ
Trọng Phụng, Giông tố
Ký hiệu & những chữ tắt
Þ: phép
kéo theo; ®: hàm ý; CTTT: cấu trúc
trừu tượng; DS: tam đoạn luận tuyển; HS:
tam đoạn luận giả thiết; HVNN: hành vi ngôn ngữ;
MP: tam đoạn luận modus ponens (suy luận theo điều
kiện đủ); MT: tam
đoạn luận modus tollens (suy luận theo điều
kiện cần); NNQ: nghịch
nhân quả; TĐL: tam đoạn luận; TGĐ: tiền
giả định
Tóm tắt
Từ
hư: những tác tử tạo nghĩa trong tiếng Việt
Bài này chứng minh rằng từ
hư là những yếu tố tác động
vào một (/nhiều) câu sẽ được một (/nhiều)
câu mới với nghĩa mới hoặc một hành vi ngôn
ngữ mới. Đó là những tác tử tạo
ra hàm ý trong tiếng Việt.
Tác tử đơn tác
động vào một câu đơn còn tác tử kép, tức
là cặp tác tử, tác động
vào một câu ghép biểu hiện
quan hệ nhân quả hoặc nghịch nhân quả. Dùng các
TĐL trong logic mệnh đề kết hợp với hai quy luật “bác bỏ bằng
cách chất vấn” và “tác động tới yếu tố
phiếm định là tác động tới tất cả.”
của tiếng Việt chúng tôi chứng minh được
những lối nói tạo thành hàm ý và những HVNN gián tiếp.
Trong tiếng Việt có những khuôn ngôn ngữ tạo
thành những cấu trúc trừu
tượng có những lược đồ nghĩa
xác định. Những cặp từ trỏ quan hệ nghịch
nhân quả luôn luôn tạo ra những câu có hàm ý hoặc những
lý lẽ ngầm ẩn.
Từ khoá: hàm ý,
hành vi ngôn ngữ, lược đồ nghĩa, quan hệ nghịch nhân quả,
quan hệ nhân quả, tác tử, từ hư,
Abstract
Empty words: operators that create implications
in the Vietnamese language
This paper shows that empty words are those that when
interacting with a sentence will create a new sentence with new meanings or new
speech acts. Thus, empty words are operators that create implications in the
Vietnamese language. Single operators interact with single sentences while
composite operators, meaning pairs of operators, interact with complex
sentences to express causal relations or anti-causal relations. Using
syllogisms in propositional logic combined with two principles “refute by
questioning” and “interact with indefinite elements meaning interacting with
everything” of the Vietnamese language, I prove that there are
ways of saying that create implication and indirect speech acts. In the
Vietnamese language, there are language schemata
that create abstract structures with definite semantical schemata. Those pairs
of words that imply anti-causal relations always create sentences with
implications or implicit arguments.
Key words: anti-causal relation, causal
relation, empty word, implication, operator, semantical schema, speech
act.