Ngữ
nghĩa các từ hư:
nghĩa của cấu trúc trừu
tượng
GS TS Nguyễn
Đức Dân
1. Những khái niệm cơ bản
1.1
Hiển
ngôn, hàm ngôn và hàm ý
Hiển ngôn và hàm
ngôn là hai khái niệm cơ
bản trong ngữ nghĩa học hiện đại
được nhiều tác giả nước ngoài
đề cập đến. Ở Việt Nam, năm 1975 Hoàng Phê
là người đầu tiên giới thiệu khái niệm tiền giả định (TGĐ) và gọi
đó là hàm nghĩa của
từ và phân biệt với nghĩa chính thức của
từ. Tương
tự, câu (/lời) gắn
với những ngữ cảnh cụ thể nên mỗi câu
(/mỗi lời) đều có
ý chính thức,
được gọi là hàm
nghĩa, và hàm ý. [HP,1975] Những năm tiếp theo, khái niệm TGĐ ,
hiển ngôn, hàm ngôn được các tác giả khác trình
bày, Nguyễn Đức Dân (1977, 1983, 1996), Đỗ
Hữu Châu (1981, 1987), Cao Xuân Hạo (1991), Nguyễn
Thiện Giáp (2000)…
Mối quan hệ
giữa hiển ngôn, hàm ngôn, hàm ý trong một phát ngôn được chúng tôi [NĐD, 1996]
quan niệm như sau:
hiển ngôn
Nghĩa
tiền giả
định
hàm ngôn
hàm
ý ngôn ngữ
hàm ý
hàm
ý hội thoại
Theo phân
biệt của Grice [1975], có hai loại hàm ngôn - những
thông tin không phải là hiển ngôn có trong lời nói: vô hướng và
hữu hướng. Hàm ngôn vô hướng là
những thông tin ngoài chủ
đích của người nói, trong đó có tiền giả định, hàm ngôn hữu hướng là
những thông tin người nói chủ ý tạo ra và
được gọi là hàm ý. Loại
hàm ý độc lập
với ngữ cảnh được Grice gọi là hàm ý quy ước (conventional
Implicature), cũng
được gọi là hàm ý
ngôn ngữ. Chúng tôi quan niệm một cấu trúc
(CT) đòi hỏi một tình
huống dùng và nó thể hiện hành vi gì thì tình huống dùng và hành vi đó cũng là một hàm
ý ngôn ngữ của CT. Loại hàm ý phụ thuộc vào
ngữ cảnh, phụ thuộc vào tình huống dùng được gọi hàm ý hội thoại hay còn
gọi là hàm ý ngữ dụng.
1.2
Cấu trúc trừu
tượng
Trong một câu, các
thực từ và từ hư kết hợp với nhau
tạo thành CT của nó. Ba câu
dưới đây có CT khác nhau:
(1) Vì trời mưa nên Ba nghỉ
học.
(2) Tuy trời mưa nhưng Ba vẫn đi học.
(3) Tuy trời mưa, Ba vẫn đi học.
Câu 1 là CT nhân quả.
Câu 2 và 3 là CT nghịch nhân
quả.
Khi thay thế mỗi
thực từ bằng phạm trù từ loại của nó,
chúng ta được lược
đồ cấu trúc của câu. Ba câu trên lần
lượt có các lược đồ là:
(I)
Vì
P nên Q
(II)
Tuy
P nhưng vẫn Q
(III)
Tuy
P, vẫn Q
Ở đó, P và Q là những phạm
trù câu.
Nếu tiếp
tục trừu tượng hóa những phạm trù từ
loại thành những yếu tố trống nghĩa A, B, C, X, Y, Z…chúng ta
được cấu trúc
trừu tượng (CTTT)
của câu đã cho. Từ
đây mỗi CTTT đều
được giả định rằng tồn tại
những thực từ mà khi các yếu tố trống
nghĩa được từ vựng hóa thì CTTT đó thành
những câu chuẩn.
Như vậy,
những CT ngôn ngữ chỉ
chứa những yếu tố khái quát trống nghĩa và
những yếu tố không phải là thực từ (danh từ, tính từ ,
động từ …) mà chỉ là những từ hư là cấu trúc trừu
tượng.
Chúng tôi quan niệm
từ hư bao gồm: liên
từ, giới từ, những từ phiếm
định , đại từ
(chỉ định và thay thế), những từ tình thái khả năng và tình thái
đạo nghĩa (nên,
cần phải, có thể…)
và phụ từ (cũng, những, có, thôi, kia, không
…).
Ví dụ về CTTT: “A thì
A”; “A gì mà B
thế?”, “A không X thì còn
ai X”… Trong những CT trên A, B, X
không có nghĩa cụ thể nào, thậm chí không
thuộc một loại từ cụ thể nào, những
từ thì, mà, thế, ai, còn, không , …đều không có
nghĩa từ vựng. Chúng
chỉ là những từ hư.
Vì vậy, những CT trừu tượng này là những
CT siêu ngôn ngữ.
1.3
Nghĩa từ
vựng và nghĩa cấu trúc
của câu
1.3.1
Nghĩa
từ vựng của câu
Là
nghĩa do các thực từ (gồm danh từ, tính
từ, động từ) và các từ hư trong câu tạo
nên.
Nghĩa từ
vựng của câu 1 liên quan tới các sự kiện do
thực từ mang lại là “trời mưa” và “Ba
nghỉ học”. Cặp từ hư “vì…nên …” tạo ra nghĩa “ hai sự kiện đó
có quan hệ nhân quả”.
Nghĩa từ vựng của hai câu 2 và 3 cũng liên
quan tới sự kiện “trời mưa” và “Ba đi
học”. Chuỗi từ hư
“tuy…nhưng … vẫn… ”
ở câu 2 và cặp từ hư
“tuy… vẫn…” tạo ra
nghĩa “ hai sự kiện trên có quan hệ nghịch nhân
quả”. Hai câu 2 và 3
đồng nghĩa. Từ câu 2, thực hiện phép
tỉnh lược từ nhưng
không ảnh hưởng tới quan hệ nghĩa
giữa hai từ hư còn lại, ta được câu 3.
1.3.2
Nghĩa
cấu trúc của câu
Nghĩa của
lược đồ cấu trúc một câu được
gọi là nghĩa cấu trúc của câu đó. Nói cách khác, nghĩa
được hình thành do các từ hư kết hợp
với những phạm trù từ loại của thực
từ trong câu là nghĩa cấu trúc của nó.
Nghĩa cấu trúc
của I là : có quan hệ nhân quả giữa hai sự
kiện P, Q.
Nghĩa cấu trúc
của II và III là : có quan
hệ nghịch nhân quả
giữa hai sự kiện P, Q.
1.3.3 Nghĩa của CTTT là những sơ đồ nghĩa
Về ngữ
nghĩa các từ hư, chúng tôi thấy có những từ
hư định hướng
nghĩa, chúng biểu hiện được nhiều hành vi ngôn ngữ. [NĐD,
1984a] Lại có những cặp từ hư biểu
hiện nghĩa, đặc biệt đáng chú ý là
nghĩa biểu hiện quan
hệ nghịch nhân quả, những cặp từ này
vừa biểu hiện quan hệ cú pháp vừa biểu
hiện quan hệ ngữ nghĩa. [NĐD, 1984b] Đối
tượng khảo sát của bài này là ngữ nghĩa của từ hư: Nghĩa
của những CTTT chứa
từ hư và độc lập với ngữ
cảnh. Chúng tôi đã lưu ý rằng ‘những kiểu câu
nhất định có
những kiểu hàm ý nhất định mà chúng ta có
thể khái quát thành sơ đồ’ [NĐD, 1996, 243]. Trong bài này chúng tôi sẽ chứng minh rằng trong
tiếng Việt có những CTTT
độc lập với ngữ cảnh và mang
những nghĩa xác định. Đó là những sơ đồ nghĩa. Những điều
được xem xét trong mỗi sơ đồ nghĩa,
là: CT có tiền giả định (TGĐ) không?
TGĐ đó là gì?
Điều kiện dùng của CT là gì? CT thể hiện hành vi ngôn ngữ gì, có hàm
ý gì?
2.
Phương pháp phát hiện nghĩa của những
cấu trúc trừu tượng
2.1 Những hàm ý quy
ước quan trọng nhất được hình thành
trong những CTTT liên quan đến ba đặc điểm cơ bản sau đây
của tiếng Việt:
Ø
Có những từ hư định
hướng nghĩa trong tiếng Việt. Hai quan hệ ngữ
nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiếng
Việt là quan hệ nhân
quả [NĐD, 1990] và quan hệ nghịch nhân quả [NĐD,
1984b].
Ø
Chất vấn là
một phương thức bác bỏ.[NĐD, 1996, 391 - 403]
Ø
Tác động tới yếu tố phiếm
định là tác động tới tất cả. [NĐD, 1985]
Để phát
hiện nghĩa của
những CT trừu tượng,
chúng tôi dựa vào
những đặc điểm trên, đồng
thời sử dụng
tiền giả định (TGĐ) của CTTT và những lẽ thường của
người Việt cùng những quy tắc suy luận lô gích. [NĐD,
1987, 1996]. Để phát hiện nghĩa của một CT,
chúng tôi chấp nhận phương pháp tái hiện CT đầy đủ của CT
đang nghiên cứu.
2.2 Phương pháp khái quát
2.2.1 Phát hiện nghĩa là một quá
trình lập luận dựa trên
những lẽ
thường và những suy
luận lô gích.
Sau khi xác định CTTT của câu,
cần trả lời các câu hỏi:
- Cấu trúc đó có là một CT rút gọn
không? Nếu có, CT đầy
đủ là gì?
- Cấu trúc đó thể hiện quan hệ
ngữ nghĩa nào?
- Cấu trúc đó có TGĐ không? Nếu có, TGĐ
là gì?
- Có những lẽ thường nào liên quan tới
cấu trúc?
- Có hành vi chất
vấn trong cấu trúc đó không?
Các câu trả lời
của những câu hỏi trên sẽ cho ta những yếu
tố thành phần trong phép suy luận ra nghĩa khái quát
của CTTT.
2.2.2
Xác
định nghĩa dựa
vào các quy tắc suy luận trong lô gích mệnh đề
.
(2.2.2.I) Không A thì cũng B. Đây là hành vi khẳng định. [NĐD, 1977a,50; 1996,257]
Nghĩa:
Khẳng
định một đối tượng có thuộc
tính ở mức độ A hoặc B thấp hơn
một chút với hàm ý đối tượng
được nhắc tới tất yếu có thuộc
tính mà A, B là những đại diện.
CT “Không A thì cũng B” được rút gọn từ CT “Nếu không là A thì cũng là B”.
Đây là mệnh đề lô
gích (~A Þ B). Nó tương đương với mệnh đề tuyển (A Ú B), tức là khẳng định
hoặc ở mức A hoặc
ở mức B. Từ ‘cũng’
đi kèm B làm cho B ở
mức thấp hơn mức
A một chút. Ví dụ: Câu “Lần này nó mà không chịu
tắm thì tôi cũng lôi nó vào buồng tắm cho
được.” có hàm ý tất yếu nó phải tắm.
Câu “Cô ấy không yêu
thì cũng thích mày.” Có hàm ý ít nhất cô ấy cũng thích
mày.
Câu “Cô ấy không 17 thì cũng 18” có hàm ý cô ấy rất
trẻ. (17, 18 là tuổi rất trẻ). Câu “Cụ ấy không 90 thì cũng đã 86, 87” có
hàm ý cụ ấy già lắm rồi. (90, 86, 87 là tuổi
rất già.)
Trong truyện ‘con rắn vuông’ (TCDGVN) có
đoạn gồm một chuỗi câu mà mỗi câu
đều có hàm ý con rắn rất dài: “Mình không tin à? Chẳng một trăm hai
mươi thì cũng
một trăm thước;
Thật mà, không
đủ 100 thước thì
cũng đến 80 thước; Không đến 60
thước thật, nhưng
ít nhất cũng 40
thước.”
2.2.3 Xác
định nghĩa dựa trên
luật “chất vấn
để bác bỏ” và “tác động tới yếu
tố phiếm định là tác động tới tất
cả”
(2.2.3.I) A gì mà A.
Đây là HV chất vấn A, (A
gì?), để bác bỏ A. [NĐD, 1996,281]
Điều
kiện dùng: Từ gì khiến
A là một động
ngữ hoặc danh ngữ.
Cấu trúc trên là hành vi bác bỏ A.
(2.2.3.II) A mà B
à?
Đây là hành vi chất vấn để
bác bỏ A.
TGĐ : a) có sự
khẳng định A;
b) B đã xảy ra;
c) Lẽ
thường: Nếu A thì không
B. Tức là ( A Þ ~B )
Nghĩa (hàm ý ): bác bỏ TGĐ là A.
Có những tình huống cụ thể, từ hàm ý ‘không
phải là A’ lại dẫn tới hàm ý khác: ‘không xứng
đáng là A’
Từ
mà
trong CT “A
mà B” là một tín
hiệu nghịch nhân quả.
Chất vấn một
quan hệ nghịch nhân quả tạo ra hành vi bác bỏ nó.
Mà B đã xảy ra. Vậy đây là bác bỏ A. Suy ra hàm ý của câu trên là không phải là A.
Có
thể chứng minh hàm ý trên như sau: Kết hợp
lẽ thường ( A Þ ~B ) với
TGĐ B, ta được hai
tiền đề của phép suy luận modus tollens (MT). ((A Þ B) & (~B)). Kết
đề của phép suy luận này là ~A. [Xem [NĐD, 1996,63]
Vd: (- Nó có bằng
cử nhân Anh văn
đấy.) / - Cử nhân mà
không dịch
được câu này à ?
Hàm ý của câu trên là nó không có bằng hoặc
không xứng đáng là cử nhân Anh văn.
Câu “Yêu
mà thế à?” có hàm ý
thế không phải là yêu;
Câu “ thông minh mà vậy
à?” có hàm ý “vậy không phải là thông minh.”
Câu chất vấn bác bỏ “50 nghìn mà anh bán à?”
tạo ra nghĩa “50 nghìn thì không bán”. Suy ra “Bán không
phải là 50 nghìn” . Số lượng là một thuộc
tính có thang độ. Phủ định một thuộc
tính có thang độ sẽ dẫn tới hiện
tượng đảo thang độ. [NĐD, 1983b]
Nên suy ra “Bán phải trên 50 nghìn” . Theo lẽ thường không ai
muốn bán rẻ.
Vậy là “50 nghìn thì không
đáng bán.”
Lưu ý: Câu “ Bao nhiêu
mà anh bán?” không có cấu trúc “A
mà B à?” vì A (= bao nhiêu” là một
từ hỏi chứ không phải một thực từ trống nghĩa.
(2.2.3.IIIa) A
(mà) không x thì (còn)
ai/B nào x?
(2.2.3.IIIb) A
(mà) x
thì (còn) ai/B nào không x?
Điều kiện
dùng: Từ
nào khiến B là danh từ [ tên người, tên
vật, đồ vật, hay
đại từ thay thế (cái đó, nó…)]. A cũng là danh từ như B, cùng
được xem xét về thuộc tính x.
Đây
là loại CT dùng từ nào chất vấn sự
tồn tại.
Nghĩa: a) Hành vi khẳng định A là cực cấp về
phương diện x/không x.
b) Suy ra hàm ý:
a’. :
A rất x / A là x nhất
b’. :
A rất không x / A là không x nhất
Chứng minh cho CT
(a): CT trên được rút gọn từ: “Nếu A (mà) không x thì còn ai/B nào x ?”
Vế thứ hai “còn ai/B nào x?” là câu chất vấn yếu
tố phiếm định ai/ B nào. Mà chất vấn
để bác bỏ. Vậy vế này có nghĩa là “không còn ai/B
nào x”. Tác động tới yếu tố phiếm
định là tác động tới tất cả. Tác động theo cách bác bỏ ai, B nào, chúng ta được
bác bỏ tuyệt đối hay là bác
bỏ tất cả: ‘mọi
người/mọi B đều không x”. Cho nên, nghĩa
của câu trên là: “Nếu A
(mà) không x thì mọi người/mọi B
đều không x”. Nói cách khác, không ai hơn A về phương diện x,
tức là A ở cực cấp
trên thang độ x.
Phương pháp chất vấn yếu tố
phiếm định này thể hiện lối tư duy
đặc thù của người Việt và
được thể hiện ra trong tiếng Việt, được dùng rất
nhiều trong quá trình hình thành nghĩa của những CTTT.
Vd: Trong CT (a), thay A bằng “nó”,
x bằng “giỏi”, ta
được: Nó không
giỏi thì còn ai giỏi? Hàm ý câu này là nó cực giỏi
nếu không muốn nói nó giỏi nhất. Thay A bằng “Thị Nở”, x bằng “xấu”,
ta được: (Trên đời này,) Thị Nở không
xấu thì còn ai xấu? Hàm ý câu này là Thị Nở xấu
nhất thế gian. Thay A
bằng “ cuộc hội
thảo này”, x bằng “vô bổ”, ta được
“Cuộc hội thảo này
không vô bổ thì cuộc hội thảo nào vô bổ”?
Hàm ý câu này là cuộc hội thảo này cực kỳ vô
bổ.
Chứng minh cho CT (b) tương tự.
Vd: Trong CT (b), thay A bằng “lão
này” , x bằng “tham nhũng”, ta được: Lão này không tham nhũng thì còn ai
tham nhũng? Hàm ý của câu này là lão này vô cùng tham nhũng. Thay A bằng “vùng
này”, x bằng “tiêu điều xơ xác” ta được “Vùng này không tiêu
điều xơ xác thì còn vùng nào tiêu điều xơ
xác?” Hàm ý của câu này là vùng này
rất tiêu điều xơ xác. Thay A bằng “bà xã nó” , x bằng “sư
tử Hà Đông” , ta được “Bà xã nó không sư
tử Hà Đông thì còn ai sư tử Hà Đông?”. Lưu ý 1.
Một người nước ngoài khá rành tiếng
Việt vẫn máy móc suy ra được hàm ý của câu
này là bà xã nó sư tử Hà
Đông nhất. Tuy nhiên, nếu người đó không
biết “sư tử Hà Đông” có ẩn dụ gì thì vẫn không thể dịch
thoát nghĩa hàm ý của câu trên.
Lưu ý 2. Hai CT (2.2.3.III a&b) trên đây là mơ hồ. Chúng được
hiểu hoặc là những câu hỏi thực sự
nếu không có ngữ điệu nhấn mạnh tạo
câu chất vấn, hoặc là những câu bác bỏ.
(2.2.3.IV) Thì
đã sao? / Thì có gì đâu?
TGĐ: Có người đã
cảnh báo về khả
năng xảy ra một điều gì đó không mấy thuận lợi,
thậm chí là một hiểm họa.
Nghĩa: Hành vi chất vấn
thể hiện sự không
đồng tình với TGĐ.
Lời
chất vấn “(A) thì đã sao?”
đòi hỏi giải
thích hậu quả của điều có khả năng xảy ra, nhưng lại không
tin vào lời giải thích sẽ được nghe.
Hàm ý:
Chấp nhận (A) một cách tuyệt đối.
(2.2.3.V) V
thế/vậy mà được? , với V là
động từ.
TGĐ: đã
xảy ra V
Nghĩa (hàm ý): V thế không được
CT
trên có cấu trúc đầy đủ là câu chất
vấn “V (như) thế/vậy
mà V2 được?”.
(V2 có thể đồng nhất với V). Từ
đó tạo ra hàm ý bác bỏ “V (như) thế (thì) không V2
được” Þ V thế (thì) không
được.
Vd:
“Nói thế mà nghe được” có hàm ý nói thế không
nghe được. Sự “biết điều” của ông
thế mà được” có
hàm ý sự ‘biết điều”
của ông thế không được.
Lưu
ý: Trong cấu trúc “A thế mà
được”, nếu mà trỏ
quan hệ nghịch nhân quả thì do đối lập
với được nên “A
thế” mang nét nghĩa âm
tính [ – ]. Do vậy, CT trên có TGĐ: “A thế mang nét nghĩa âm tính [ – ]. Nghĩa của CT này lại là HV khẳng
định “được”.
Vd: “Anh ta thế mà được”
có ý khen “được”!
(2.2.3.VI) A
sao lại không B?
Có B gì đâu mà A ?
B gì mà A ?
A mà lại B (ư/à)?
Là những hành vi bác
bỏ theo cách chất vấn điều khẳng
định A. [NĐD, 1996, 264, 406]
(2.2.3.VII) A
thế mà B
TGĐ: A, B đã xảy ra
Lẽ thường: Nếu A thì không B
Nghĩa (hàm ý) : Xảy ra B là trái với lẽ thường
Vd: “Thi không ngậm
ớt thế mà cay” (Tú Xương); “[Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng] /Thế mà im, chẳng đãi đằng, /Chào mời vui
vẻ nói năng dịu dàng”
(Truyện Kiều). Câu
này có hàm ý: lẽ thường là không thể im lặng. Câu
“Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt” (Kim
Lân, Vợ nhặt) có hàm ý
lẽ ra sẽ xuống.
(2.2.3.VIII) x
không phải là a sao?
TGĐ : Có một
phát ngôn khẳng định
thuộc tính của đối tượng x là b, là c, là d…”
với hàm ý ngoài ra không còn là thứ gì khác.
Hàm ý: Khẳng định
x là a.
Đây
là hành vi dùng từ sao chất
vấn khả năng để bác bỏ hàm ý về tính duy nhất trong phát ngôn ở TGĐ.
Vd: - Hoài Thanh: “một bài văn hay là một bông hoa…là một tý
hương man mác lúc canh trường, những màu xanh
tươi rung rinh dưới ánh trời khi ban sớm,
khiến cho khách giang hồ quên những nỗi nhọc
nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say
sưa…”
-
Hải
Triều: “Văn hay gì mà chỉ ví như cái hoa ngào ngạt
làm cho người ta say sưa, quên sự mệt nhọc,
vậy còn những thứ văn bén như gươm dao,
cái thứ văn ‘triệt thiết trảm đinh’, thôi
thúc người ta, phấn khởi người ta, ông
bảo không phải là thứ
văn hay hay sao?” (Hải Triều, Nghệ thuật và sự sinh hoạt xã hội, TTPBVHVN, tập 2, 408)
2.2.4 Xác
định nghĩa dựa trên
luật “chất vấn
để bác bỏ” và quan hệ “nghịch nhân quả”
Quan hệ nghịch nhân quả là quan
hệ giữa hai sự kiện xảy ra ngược
với một lẽ thường nào đó. Quan hệ này
được thể hiện ở sự liên kết
giữa các từ nối theo cấu trúc cơ bản “Tuy …nhưng (mà)…”. Cấu trúc
này có thể rút gọn thành những cặp từ nối,
thậm chí chỉ còn một từ nối [NĐD, 1984b].
Bởi vậy, những CT trừu tượng này luôn luôn
có một nghĩa chung là “Đã xảy ra sự kiện
ngược đời, ngược với một lẽ
thường nào đó”. Tùy
từng từ, từng cặp từ phiếm định
cụ thể nó còn thêm những hàm ý khác.
(2.2.4.I) Còn A đã B
TGĐ: Đã xảy ra A và B
Lẽ thường: Nếu A thì chưa
B
Nghĩa: Xảy ra B là một hiện
tượng sớm. (cặp
“còn…đã” trỏ CT NNQ sớm)
Tùy tình
huống cụ thể, nó có hệ quả ngữ dụng
như: sớm là nhanh quá, là bất ngờ quá, là
đột ngột quá…
Vd: Nhờ
cặp “còn…đã” trong câu thơ “Mẹ đào hầm khi mái tóc còn xanh/Mà nay đã
phơ phơ đầu bạc” và cặp đối
lập “tóc xanh/đầu bạc” biểu trưng cho quan
hệ “tuổi trẻ/tuổi già” mà chúng ta nhận ra hàm ý
“thời gian trôi nhanh quá; cái già đến nhanh quá”.
Cũng nhờ cặp “còn…đã” mà câu thơ “Hôm qua
còn theo anh/ đi ra đường quốc lộ./Hôm nay
đã chặt cành/đắp cho người dưới
mộ” (Viếng bạn,Hoàng
Lộc) toát lên hàm ý anh hy sinh đột
ngột quá.
(2.2.4.II) A
mà cũng B à?
TGĐ: A và B
đã xảy ra.
Nghĩa (hàm ý): Lẽ
ra không nên B,
không cần B
Thật vậy, từ mà trỏ quan hệ nghịch nhân quả, dẫn
tới nghĩa ngược
đời. Từ cũng là
sự đánh giá thấp hơn trong một so sánh ngang bằng. Nghĩa là nếu A1 là một mốc tối
thiểu để “Nếu A1
thì B” thì với
những A nào thấp hơn A1 (tức là A £ A1
) thì sẽ không xảy
ra quan hệ “Nếu A thì B”.
Nhưng trong thực tế A,
B đều đã xảy ra, nên người ta
ngạc nhiên và chất vấn về điều không bình
thường này và thành hàm ý “lẽ
ra A thì không B”. Từ quy tắc phủ định trong
lô gích tình thái, suy ra hàm ý: lẽ ra A thì không nên B. Ví dụ:
“- Q?/ - (Ôi cô bé
của anh.) Câu ấy mà cũng
hỏi!” (LTNCE, tập 41)
Hàm ý: lẽ ra không
nên hỏi câu ấy.
Tương tự, câu “A mà cũng nói!” có
hàm ý lẽ ra A là điều
không nên nói. Câu “A mà cũng
cười!” có hàm ý lẽ ra
A là không nên cười. Câu “A mà cũng yêu!” có hàm ý
lẽ ra A là điều không nên yêu. Câu “Thế mà cũng đọc kinh, cũng xưng tội”
(NGTÂ, 53) có hàm ý lẽ ra như thế thì không nên đọc kinh, không nên xưng tội.
(2.2.4.III) A gì mà lại B (thế/vậy)?
TGĐ: a) Có một đối tượng là A;
b)
Đã xảy ra B ;
c) Lẽ thường: A
sẽ dẫn tới kết quả không B
Nghĩa (hàm ý): đối
tượng này không đáng là A.
Theo lẽ
thường A sẽ dẫn tới kết quả không B, nhưng đã xảy ra
B, nên CT này biểu thị
một kết quả ngược đời. Điều
này được thể hiện ở hai từ “mà”
trỏ quan hệ nghịch nhân quả, còn “lại” biểu
thị những hiện
tượng ngược đời. Hai từ này có nét nghĩa phù hợp. “A gì” là một câu chất
vấn A nhằm bác bỏ A. Nhưng đã là A trong
thực tế, không thể bác bỏ được nên “A
gì” chỉ có thể là lời đánh giá “không đáng là
A” mà thôi. Vd: Với A =
người mẫu; B = mắt lác,
thì “Người mẫu
gì mà mắt lại lác.” sẽ có hàm ý là “Người này
không đáng là người mẫu”. Với A = tiến
sĩ, B = không hiểu điều này, thì câu “Tiến sĩ
gì mà không hiểu điều này” sẽ có hàm ý “Người
này không đáng là tiến sĩ.”
Trong CT trên, nếu lược bớt một trong
hai từ “mà” hoặc “lại”
hàm ý của nó vẫn vậy. Hai câu “A gì mà B thế”, “A gì
lại B thế” đều có hàm ý “đối
tượng này không đáng là A”.
2.2.5 Xác
định nghĩa dựa trên
luật “chất vấn
để bác bỏ” và quan hệ “nhân quả”
CT “Nếu A thì
B” trỏ quan hệ nhân quả. Đây là mệnh
đề lô gích “A Þ B”, ở đó A là điều kiện đủ của B còn B
là điều kiện cần của A. Khi vế B bị chất vấn
để bác bỏ sẽ dẫn tới kết quả ~B.
Vậy là ta có đủ hai tiền đề của phép
suy luận MT. Từ
đây suy ra ~A. Một vài CTTT:
(2.2.5.I)
[Nếu] không A cho X thì A
cho ai?
(2.2.5.II) [Nếu] không A với X thì A với
ai?
(2.2.5.III) [Nếu] không A X
thì A ai?
Điều
kiện dùng : Từ cho khiến A là một động từ; từ ai khiến X là một danh từ.
Các CT trên đều có hàm ý “X là cực cấp, xứng
đáng nhất được A”, tức là “A (cho/với) X là tất yếu.”
Vd: (1)
Chị không mua quà cho em thì còn mua cho ai nữa? (CTT,tập
34)
CT của (1) là “[Nếu]
A thì B”. Tức là (A Þ B). Với A = không mua quà cho em; B = còn mua
quà cho ai nữa?
Câu chất vấn
yếu tố phiếm định ai (còn mua quà cho ai nữa?) tạo ra nghĩa bác bỏ tuyệt đối: “không mua quà cho ai cả”. Như
vậy, nghĩa của câu trên sẽ là
(1b) [Nếu] chị không mua quà cho em thì sẽ
không mua cho ai cả.
Có một lẽ
thường: tặng quà là một tất yếu đời thường, không
tặng lúc này thì tặng lúc
khác, không cho người này thì cho người khác . Vậy
thì, vế sau của (1b) là
sai. Tức là (~B). Từ
(A Þ B) và (~B), theo quy tắc MT, suy ra
(~A). Vậy thì em ở cực cấp cao trong những người chị
sẽ mua quà tặng. Em
tất yếu được chị mua quà
tặng.
Câu “Không
nói với anh thì (biết) nói
với ai?” có hàm ý anh là người tôi đáng nói nhất.
Câu “Mẹ không tin con thì
(mẹ) tin ai?” có hàm ý tất nhiên
mẹ tin con. Câu “Không lấy nó thì đòi lấy ai?” có
hàm ý con lấy nó là tốt nhất là lý tưởng nhất. Câu “Không mặc áo này
thì mặc áo nào?” có hàm ý mặc áo này hợp nhất.
Lưu ý: Chỉ câu
chất vấn mới có những hàm ý như vậy. Một
câu hỏi bình thường không có ngữ điệu
nhấn mạnh thì không có hàm ý ấy. Hai câu “Không muốn
lấy nó thì con muốn
lấy ai?”, “Không mặc áo này thì con thích mặc áo nào?” là những câu hỏi.
(2.2.5.IV) Nó
(mà) A thì sao?
Nghĩa (hàm ý): Để xảy ra “nó A” là một điều đáng
tiếc.
CT
đầy đủ của 2.2.5.IV là: (2.2.5.IVb) Nếu
nó (mà) A thì biết làm sao? Đây là mệnh
đề “Nếu A thì B”. Với A = nó (mà) A; còn B = “biết
làm sao” là câu chất vấn.
Chất vấn về một khả năng hành
động “biết làm sao” dẫn tới sự bác
bỏ khả năng hành
động ứng phó với sự kiện xảy ra:
“không biết làm sao”. Từ
đó câu trên luôn luôn có hàm
ý âm tính [ – ] là nếu nó (mà) A thì không biết làm sao, không
có khả năng ứng phó với điều đáng tiếc xảy ra.
Lưu ý: Câu “[ – U ơi! Dậy ngay có việc cần! /
(…) – Việc gì đêm hôm này?] Gọi cái Mai thằng Tú
dậy thì sao.” (MĐLNNM, NKT, 108) không có cấu trúc 2.2.5.IV vì
người nói chứ không phải là người thứ
ba “nó” thực hiện hành
động A.
(2.2.5.V) Ai cũng A thì ai B?
Điều kiện dùng : Từ ai khiến A, B là những vị
từ để “ai A”, “ai B” thành câu.
TGĐ: có lẽ
thường “không thể
không B”
Nghĩa (hàm ý): cần có người không A
(2.2.5.VI) Nếu
vậy (thì) còn ai nữa?
Nghĩa (hàm ý): Không thể vậy
3.
Những cấu trúc
trừu tượng chứa hàm ý ngôn ngữ
3.1 Những hành vi (HV) ngôn ngữ
Có những HV ngôn
ngữ được hình thành một cách quy ước.
Trong số này có những quy ước về cấu trúc,
tức là qua cấu trúc biết
được HV.
3.1.1 Những HV ngôn ngữ được quy ước
về cấu trúc
Chúng
tôi đã chứng minh có
những HV ngôn ngữ khái quát sau:
(3.1.1.I)
A thì
có
Đây là HV bác bỏ [NĐD, 1984a]
TGĐ:
Có lời khẳng định thuộc tính B (đối
lập với A) của một đối tượng nào
đó.
Nghĩa:
Khẳng định thuộc tính A và tạo ra hàm ý bác
bỏ TGĐ .
Vd: Trong đoạn thoại “-
(Tớ rất sợ ma.)/ - Ma sợ cậu thì có.” Câu sau
có hàm ý cậu không hề sợ ma.
(3.1.1.II) (Còn) B thì không
Đây là HV đối đáp tạo
hàm ý đánh giá cân bằng giữa hai đối tượng A và B. [NĐD,
1984a]
TGĐ: a) Có hai đối tượng A
và B
b) Có một phát ngôn đánh giá đối tượng A qua
việc khẳng định một thuộc tính của nó.
Nghĩa (hàm ý): 1)
Ngầm ẩn chấp nhận TGĐ b); 2)
Đối tượng B
cũng có thuộc tính ấy. Từ đó dẫn
tới là hàm ý A, B là như
nhau.
(3.1.1.III) Còn
B thì Y (à?)
Đây là HV
nói đay nhằm
mỉa mai B. [NĐD, 1984a]
TGĐ: a) Có hai đối tượng A và B
b) Có một phát ngôn chê A
có thuộc tính X (đối
lập với Y) mang nét nghĩa âm tính [ – ].
Nghĩa (hàm ý): Đây là HV khen giả nhằm nói đay, tạo ra hàm ý
mỉa mai B: Đối tượng B cũng có thuộc tính X sao
còn chê A.
Ví dụ: - Chuột chù chê khỉ rằng hôi/ Khỉ mới
trả lời cả họ mày
thơm. (cd)
(3.1.1.IV) Còn B thì
Y thôi
TGĐ: a) Có hai đối
tượng A và B
b) Có
một phát ngôn khen A có thuộc tính X mang nét
nghĩa dương tính
[+].
Nghĩa
(hàm ý):
Người nghe hiểu ngầm là
phát ngôn ở TGĐ b) có
hàm ý chê đối tượng B có thuộc tính Y
(đối lập với X) mang nét nghĩa âm [ –], bèn
tự chê không thật lòng, chê giả, tạo
ra HV nói dỗi. [NĐD, 1984a]
Ví dụ: Chồng: Thằng đó
may thế, vớ được cô vợ vừa
đảm lại vừa xinh.
Vợ: Vâng, tôi biết, chỉ có mẹ sề nhà ông là vừa
đoảng lại vừa xấu thôi.
(3.1.1.V) Hơn nữa A
Đây là HV
bổ sung (lý lẽ) [NĐD, 1984a]
TGĐ: Trước đó có một nhận định B
A là điều
bổ sung cho nhận định B đã nêu trước
đó.
(3.1.1.VI) A mà
lại
A mà (Phương ngữ Nam Bộ).
Đây là HV giải thích [NĐD, 1984a; 1996]
TGĐ: a) Đã tồn tại A;
b)
Trước đó có một khẳng định B.
c) Lẽ thường: Nếu A thì B
Nghĩa: Nhắc tới A và ngầm nhắc
tới lẽ thường nhằm tạo ra hàm ý
B là điều đương nhiên.
(3.1.1.VII) A thì A
Đây là HV chấp nhận [NĐD, 1996, 284]
TGĐ: Có một người đã nhắc
tới A như là một lời đề nghị, yêu
cầu thực hiện A hoặc cảnh báo về một
khả năng xảy ra A
không mấy thuận lợi, thậm chí là một
hiểm họa.
Nghĩa (hàm ý): Người
nghe miễn cưỡng chấp nhận thực hiện
A hoặc khả năng A.
Chính vì
miễn cưỡng chấp
nhận mà cấu trúc này thường được
nối tiếp bởi ‘nhưng’,’mà’
biểu hiện quan hệ nghịch nhân quả, mở đầu cho cụm
từ mang nghĩa trái ngược với A hoặc hệ quả rút ra từ A: ‘A thì A, nhưng/mà…’ Vd:
“Việc ấy, nói thì nói, nhưng
không nên làm.”; “Rằng hay thì
thật là hay. [Nhưng] Nghe ra ngậm đắng nuốt
cay thế nào.” (Truyện
Kiều); “Bạn thì bạn, (nhưng) nó cũng
lừa.”; “Giầu thì giầu, mà
vẫn không có hạnh phúc.”; “[Giấy này mỏng tệ.] -
Mỏng thì mỏng, (nhưng) không hề gì.”
(3.1.1.VIII)
A (x) thì A, ở đó x =
sao, mấy, gì, đâu, nào …
TGĐ: A(x) được nhắc tới
như là một cảnh báo
về một khả năng xảy ra A(x) không mấy thuận lợi,
thậm chí là một hiểm họa.
Nghĩa: Đây
là HV chấp nhận A ở mức cao hơn, bất
chấp A(x).
Ví
dụ: “Già mấy thì già, thế mà cũng có người
yêu say đắm đấy.” (NK); “Ra sao thì ra – tôi sẽ đi!”; “ Cậu muốn hiểu
thế nào thì hiểu.”
(3.1.1.IX) Nào
thì A
TGĐ: Có lời đề nghị thực
hiện A
Nghĩa: HV chấp nhận thực hiện A
Vd: (- Chúng ta đi nào!) - Nào thì
đi.
(3.1.1.X)
Thì vậy đi
TGĐ:
Có một nhận định P trước đó.
Nghĩa:
Từ vậy thay thế
cho P và tạo ra nghĩa là
một HV miễn cưỡng
chấp nhận P.
“Thì vào
chơi nói chuyện vậy.” (NCH); “[- Em chỉ
huy được chứ?] Ừ
thì em vậy.”;
“- Thì mợ
đi một mình vậy.” (NH); “Thì [cứ cho là
như ] vậy đi. (Con voi,
175).
(3.1.1.XI) Thì đây B
TGĐ: Có một phát
ngôn tỏ ý hoài nghi, băn khoăn về một điều
gì đó.
Nghĩa:
HV giải thích, chứng minh theo
chứng cứ B.
“Thì đây, các ngài hãy cứ nhìn vào ông huyện Hinh,
hẳn các ngài phải chịu ngay rằng tôi không nói
đùa.” (NCH); “Thì đây, anh
cứ đọc bài này là rõ. Đúng là ‘cháy nhà mới ra mặt chuột.’ ”
(3.1.1.XII) Có
điều B
Đây là HV điều chỉnh [NĐD,
1996, 288]
TGĐ: Có kết luận A được đưa ra.
Nghĩa: Điều chỉnh lại
A theo mức độ
thấp hơn.
3.1.2
Những HV ngôn ngữ quy ước có được qua phép suy luận
(3.1.2.I) A thì cũng B
Đây
là HV khẳng định.
[NĐD, 1984a; 1996, 293]
TGĐ:
Có một phát ngôn đề cập tới A với hàm
ý nếu xảy ra A (hoặc hệ quả A’ của nó)
sẽ ảnh hưởng xấu tới B, trở ngại
cho B xảy ra.
Nghĩa (hàm ý): khẳng
định vẫn thực hiện B, và bác bỏ hàm ý
ở TGĐ.
Vd: Câu “Chán thì cũng phải ăn
hết” có TGĐ là có một phát ngôn nói rằng chán
ăn hoặc không có
thể ăn hết món gì
đó. Người nói không
chấp nhận điều này
và đã nói một câu có
hàm ý ép ăn hết.
(3.1.2.II) Thì B vậy
TGĐ: Người nói đã đề nghị A nhưng
không được chấp nhận.
Nghĩa: HV đề
nghị mức B thấp
hơn mức A đưa ra
trước đó.
Đây là cấu trúc rút
gọn của “[Nếu] Không A thì B vậy”
3.2
Những cấu trúc chứa từ MÀ
(3.2.1.I) Có A
mà cũng B
Đây
là HV bình luận [NĐD, 1996, 288]
TGĐ: a) Đã xảy ra A và B
b) Lẽ thường: A thì không
B
Nghĩa (hàm ý): người nói
bình luận thể hiện sự ngạc nhiên trước điều xảy ra trái với lẽ
thường đã nêu.
(3.2.1.II) Không
A đâu mà B
Đây
là HV khuyên. [NĐD, 1996,243]
TGĐ: Lẽ thường “Nếu
A thì B”
Nghĩa (hàm ý): khuyên đừng B
(3.2.1.III) A gì
mà A
Đây là HV
bác bỏ. [NĐD,
1996,281]
TGĐ: Có lời khẳng định A
Nghĩa: Bác
bỏ A
3.3 Những cấu trúc chất vấn
(3.3.I) Thế này cũng là A sao?
Đây là HV bác bỏ với hàm ý thế này
không đáng là A.
“- Rượu
thượng hạng của quán tôi đây!
- Thế này (mà) cũng là rượu sao?”
(3.3.II) B
nào x bằng (/hơn)
A?
Đây là HV Chất
vấn qua CT so sánh bằng, hơn
Điều kiện dùng: Từ
nào khiến B, và do
đó A đối tượng so sánh với B, là những
danh từ, còn x là một thuộc tính của danh từ.
Nghĩa: Khẳng định A
là nhất (một cực cấp) về phương
diện x.
Vd: Câu
“Núi nào cao bằng núi Thái Sơn?” có hàm ý núi Thái Sơn cao nhất. Câu
“Còn nỗi khổ nào hơn
nỗi khổ này?” có hàm ý nỗi khổ này khổ
nhất.
(3.3.III) Tìm
đâu ra một B(x) như A?
Hành vi chất vấn qua CT so
sánh như.
Nghĩa: Khẳng định A là nhất (một cực
cấp) về phương diện x
Vd: “Trên đời này, tìm đâu ra một
người (đẹp/thông minh/tài năng/tốt/lưu
manh/thủ đoạn)
như nó (/anh ấy/cô ấy/thế) ?” Những câu
trên có hàm ý nó (/anh ấy/cô
ấy/thế ) là nhất về một phương
diện được đề cập (đẹp/thông
minh/tài năng/tốt /lưu
manh/thủ đoạn).
(3.3.IV) X bằng A là cùng chứ gì?
Hành vi chất vấn qua CT so sánh
là cùng.
TGĐ: Một đối
tượng nào đó
được đánh
giá có thuộc tính X ở mức độ cao.
Nghĩa (hàm ý): Khẳng định A là đối
tượng ở cực cấp có thuộc tính X. Suy
ra hàm ý: đối
tượng đó không thể so sánh với A về
phương diện X.
(3.3.V) Không A chả lẽ lại B?
Chẳng lẽ
B?
Đây là HV chất
vấn về lý lẽ
để khẳng định không B.
Điều kiện dùng: A xếp cao hơn B theo một thang
độ nào đó. Do vậy, có lẽ thường: không
A thì cũng không B.
Nghĩa (hàm ý): Khẳng định không thể B, Vậy nên đương
nhiên hoặc A hoặc một
điều không phải là B.
“Anh Viện không giúp người nhà mình
chả lẽ lại đi
giúp người ngoài à?” (CTT,
tập.32)
(3.3.VI) Đáng lẽ A thì B mới
phải
TGĐ: đã A và đã (/đã quyết định) không B
Đây là lập
luận tạo hàm ý “lẽ ra là
B”
Vd: “Đáng lẽ
trời lạnh như thế này không nên đi mới
phải”
Ký hiệu tắt
trong bài viết: A,
B, C, X, Y, Z - yếu
tố thực từ trống nghĩa , từ
loại bất kỳ ; CT - cấu trúc ; CTTT – cấu trúc
trừu tượng; HV- hành
vi; N - danh từ; NNQ –
nghịch nhân quả; S, P - câu ; TGĐ: tiền giả
định; V - động từ; Vd: ví dụ;
Tài
liệu tham khảo
Đỗ Hữu Châu, 1981, Từ vựng ngữ nghĩa
tiếng Việt, nxb Giáo dục.
Đỗ Hữu Châu, 1985, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, nxb
ĐH&THCN.
Nguyễn Đức Dân, 1977a, Lô gích và
sự phủ định trong tiếng Việt, Ngôn ngữ,số 3.
Nguyễn Đức Dân, 1977b, Những mô hình ngôn ngữ (ronéo),
ĐH Tổng hợp
tp HCM, 76 trang.
Nguyễn
Đức Dân, 1983a, Phủ định và bác bỏ, Ngôn ngữ, số 1.
Nguyễn
Đức Dân & Nguyễn Thị Yên, 1983b, Thang
độ, phép so sánh và sự phủ định, Ngôn ngữ, số 3.
Nguyễn Đức
Dân, 1984 a, Ngữ nghĩa các từ hư: Nghĩa
của từ”, Ngôn ngữ, số 2.
Nguyễn Đức
Dân, 1984b, Ngữ nghĩa các từ hư: Nghĩa của
cặp từ”, Ngôn ngữ, số
4.
Nguyễn Đức
Dân , 1985, Một số phương thức thể hiện
ý tuyệt đối, Ngôn
ngữ, số 3.
Nguyễn Đức
Dân, 1987, Lô gích, ngữ nghĩa và cú pháp,
nxb ĐH &THCN.
Nguyễn Đức
Dân, 1990, Lô gích và hàm ý trong câu
trỏ quan hệ nhân quả, Ngôn
ngữ, số 1.
Nguyễn Đức
Dân, 1996, Lô gích và tiếng
Việt, nxb Giáo dục.
Nguyễn Đức
Dân. 1998, Ngữ dụng
học, tập I, nxb Giáo dục.
Nguyễn Đức
Dân, 2006, Lô gích – ngữ
nghĩa của từ MÀ,
Ngôn Ngữ, số 6.
Nguyễn Đức
Dân, 2008, Lô gích – ngữ nghĩa của từ thì, Ngôn ngữ, số 11 &12,
Nguyễn Đức
Dân & Đỗ Thị Thời, 2007, Câu chất vấn, Ngôn ngữ, số 9 & 10.
Nguyễn
Thiện Giáp, 2000, Dụng
học Việt ngữ, nxb GIÁO DụC
P.
Grice, 1975, Logic and Conversation, trong Syntax
and Semantics, vol.3 (Eds. by Cole, P. & Morgan, J.L.)
Cao
Xuân Hạo, 1991, Tiếng
Việt – sơ thảo ngữ pháp chức năng , nxb
KHXH.
Hoàng
Phê, 1975, Phân tích ngữ nghĩa, Ngôn Ngữ, số 2.
Dẫn
liệu
Ca
dao: ca dao; CTT: phim Chủ
tịch tỉnh (trên VTV1);
LTNCE: Lời thú nhận của
Êva (phim trên VTV3); MĐLNNM: Mảnh đất lắm
người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường;
NCH: Nguyễn Công Hoan; NGTÂ: Những
ngày thơ ấu, Nguyên Hồng; NH: Nguyên Hồng, NK:
Nguyễn Khải; TCDGVN: Tiếng
cười dân gian Việt Nam, Trương Chính và Phong
Châu biên soạn.
Tóm
lược
Trong tiếng
Việt, có những CTTT
chứa sơ đồ nghĩa là những hàm ý ngôn ngữ quy ước. Phương pháp phát
hiện nghĩa của những
CTTT dựa trên công cụ suy luận trong lô gích mệnh đề và 3 đặc điểm cơ
bản sau đây của tiếng Việt: 1) Có những từ hư định hướng nghĩa. 2) Chất vấn là
một phương thức bác bỏ. 3) Tác động tới yếu tố phiếm
định là tác động tới tất cả.
Bài đã khảo sát ngữ nghĩa của 41 CTTT
trong tiếng Việt.
Summary
This paper proves that in the Vietnamese
language, there are abstract structures
that are independent of context and have conventional meanings. They are
semantic schemes. They are mostly
related two special semantic relationships in Vienamese language, which are causal relationship and anti-causal
relationship. The possible components in an abstract structure’s semantic scheme are: the use condition, the
presupposition of the abstract structure, the speech act and
the conventional implicature that the
abstract structure demonstrates.
To uncover the semantics of abstract
structures , the paper has used the deductive
reasoning and based on the three following
features of Vietnamese language: (1) There are empty
words that orient the meanings;
(2) Questioning is a way to invalidate an argument;
(3) Effecting the indefinite is to effect everything.
This method will be illustrated
though the discovery of meanings of 17 abstract structures.
The last
section will illustrate other 24
abstract structures that present distint speech acts.