đă đăng (Ngôn ngữ số 5-2021) t/c NGÔN NGỮ
KHÔNG
GIAN TÂM TRÍ TRONG NGÔN NGỮ HỌC NHẬN THỨC
MENTAL
SPACES IN COGNITIVE LINGUISTICS
NGUYỄN
ĐỨC DÂN*
TRẦN THỊ
MINH THU **
Tóm
tắt:
Trong bài báo này chúng tôi giới thiệu
khái niệm không gian tâm trí của Gilles Fauconnier
và một số vấn đề liên quan. Đây là một
khái niệm quan trọng và có nhiều ứng dụng trong ngôn ngữ học nhận thức nhưng c̣n khá xa lạ
với không ít người trong giới ngôn ngữ học
Việt Nam.
Từ
khóa: Không gian tâm trí; Gilles Fauconnier; ngôn ngữ
học nhận thức.
Abstract: In this article, we introduce the notion of mental spaces
given by Gilles Fauconnier and some related issues. This is an important
concept, which has many applications in cognitive linguistics. However, this
concept is still quite unfamiliar to many linguists in Vietnam.
Keywords: Mental Spaces, Gilles Fauconnier, Cognitive Linguistics.
1. Mở đầu
Từ cuối những năm 50 của thế
kỷ trước, ngữ pháp biến
đổi-tạo sinh của N. Chomsky đă tạo ra “cuộc cách mạng trong ngôn ngữ
học” (lời tựa của J.S. Searle cho công tŕnh
tập hợp những bài giảng của Chomsky tại
đại học Berkeley năm 1967 mang tựa đề Chomsky’s Revolution in Linguistics,1972). Giới ngôn ngữ học ồ ạt
nghiên cứu theo hướng mới này. Tuy nhiên, có những
hiện tượng ngữ pháp tạo sinh không giải
thích được thấu đáo liên quan tới ngữ
nghĩa, logic học, rồi vấn đề lượng
từ, phép lặp đại từ, hiện tượng mờ
nghĩa, phép chiếu xạ tiền giả định... đă
bùng
nổ những nghiên cứu vượt
ra ngoài phạm vi cơ cấu h́nh thức của ngôn ngữ
vào
cuối những năm 70 thế kỷ
trước. Mở đầu là những công tŕnh có ảnh
hưởng quan
trọng tới giới ngôn ngữ học của Lakoff và
Johnson [4] về lư thuyết ẩn dụ, của Langacker [10]
về ngữ pháp không gian (sau này gọi là
ngữ pháp nhận thức), lư thuyết h́nh và nền của Talmy [9] và nhiều
tên tuổi khác, trong số này có G. Fauconnier và M. Turner.
1.1. Trong bài này chúng tôi giới thiệu
một số khái niệm cốt lơi về “không gian tâm trí” (mental
space) [từ đây viết tắt KG ≈ không gian ≈ không gian tâm trí] trong ngôn ngữ học nhận
thức[1],
qua những công tŕnh sau đây của Gilles
Fauconnier [7], [8], Gilles
Fauconnier và Mark Turner [6] .
1.2. Quy ước về kư hiệu
Một không gian tâm trí thông thường
được biểu hiện bằng một h́nh tṛn, trong đó
ghi các nốt (dấu chấm) biểu hiện những phần
tử (c̣n gọi là yếu tố) trong không gian
đó. Các
phần tử hợp thành một quan hệ
được gọi là khung, theo nghĩa của Ch.
Fillmore, của không gian tâm trí đó. Khung này được
vẽ ở ngoài đường tṛn bằng một
đường viền h́nh chữ nhật bao quanh các phần
tử và quan hệ của chúng.
Ví dụ:
H́nh 1
Để h́nh vẽ bớt phức tạp,
chúng tôi qui ước dùng dấu móc nhọn thay
cho h́nh
tṛn, c̣n móc vuông thay cho khung. Nghĩa là h́nh vẽ
“đường tṛn có hai phần tử a, b” sẽ được viết là {a,b}, c̣n h́nh vẽ khung chữ
nhật có 3 hàng “a-Thúy Kiều”, “b-Kim Trọng”, “YÊUab” sẽ
được viết là:
[a-Thúy Kiều, b-Kim Trọng, YÊUab].
Như
vậy câu “Thúy Kiều yêu Kim Trọng” tạo ra KG
{a,b} và một khung gắn với nó sẽ
được biểu hiện như sau:
{a,b}▫ [a-Thúy Kiều, b-Kim Trọng, YÊUab]
2.
Thế nào là một không gian tâm trí?
2.1.
Những câu dưới đây là những KG tâm trí:
(1a)
Chúng tôi đă
đi chùa Hương vào năm 2019.
(1b) Giá mà bạn đi chùa
Hương.
(1c) Ba tin rằng bà ấy
đă đi chùa Hương nhiều lần.
(1d) Đây là tấm ảnh chụp
chuyến đi chùa Hương năm 2019 của tôi.
(1e) Trên trời mây trắng
như bông,
Ở
dưới cánh đồng bông trắng như mây.
(Ca dao)
(1g) Ngày đi em chửa có chồng,
Ngày
về em đă con bồng con mang.
(Ca
dao)
Câu (1a) là trí nhớ về dịp
đi chùa Hương của
tôi, nó tạo ra một KG về
một sự kiện trong quá khứ gồm có ba phần tử “chúng tôi,
chùa Hương, năm 2019”.
Câu (1b) cũng tạo
ra một KG nhưng lại
là một
giả định phi
thực cùng những hệ quả nào đó. Câu
(1c) cũng lại tạo ra một
KG nhưng là KG Ba bày tỏ ḷng tin vào một sự kiện.
Lại nữa,
câu (1d)
cũng gây ra KG nhưng
lại nói về nội dung tấm ảnh.
Trong câu (1e), hai trạng ngữ vị trí “trên trời”, “ở
dưới cánh đồng” đă kiến tạo ra hai KG đối lập
nhau. KG thứ nhất
ở
trên trời, giữa những đám mây trắng, người
nói so sánh với bông
trắng. Ấy thế nên “mây trắng như bông”. KG thứ hai trên cánh đồng
bông, thấy bông nên liên tưởng “bông trắng như
mây”. Trong câu (1g) hai trạng ngữ thời
gian “ngày đi” và “ngày về” cũng kiến tạo ra hai KG đối
lập nhau ở thời quá khứ và thời hiện tại.
Chúng ta nói KG là những hợp thành rất
riêng biệt được cấu tạo như cách chúng
ta nghĩ và nói để
hiểu và hành động (trong những
t́nh huống cụ thể). Theo Fauconnier [8], ở cấp độ thần kinh, KG là tập
hợp bộ phận thần kinh đă hoạt hóa và kết
nối những yếu tố tương tự
cùng hoạt động-kết nối. Đó
là những trải nghiệm sống, những tri thức
tinh thần, tri thức về
cuộc
sống thường
ngày và
những tri thức về tập tục, sinh hoạt
văn hóa, xă hội, lễ hội…Chúng gồm những yếu
tố được cấu trúc theo những mô h́nh nhận
thức thể hiện sự kết nối những tri thức
bền lâu
mang tính lược đồ.
Những
KG này được h́nh thành từ nhiều nguồn. Trong
số này có những lĩnh vực chúng ta quen thuộc
(như đi lại, ăn uống, mua bán, giao tiếp, hiếu
hỷ, công vụ, văn hóa, thể thao…). Một KG rất
riêng lẻ có thể được xây dựng ngoài tri thức
của chúng ta như KG “cô Ba và tiệm cà phê Trung Nguyên”. Ngoài
bữa điểm tâm có thể là chuyện giao dịch, cho xem một bức ảnh “mật” trên
điện thoại di động …Kinh nghiệm
cho ta biết ngay những KG này. Khi một người nói
“Sáng nay lần đầu tiên cô Ba tới uống ở cà
phê Trung Nguyên” chúng ta lại nghĩ tới một KG mới và chờ
đợi một cuộc thoại tiếp theo. Tŕnh bày một diễn
ngôn đầy đủ sẽ là bày ra một loạt KG có
kết nối với nhau làm thay đổi điểm nhấn
từ KG này sang KG khác. Trong
những
KG được xây dựng
trong hoạt động trí nhớ có những KG in sâu vào tiềm
thức, như Bồ Tát tọa trên đài sen, Chúa bị
đóng đinh trên cây Thánh giá,
Thúy Kiều bán ḿnh chuộc cha, An Dương
Vương xây thành ốc…chúng có thể kích hoạt đồng
thời những KG
khác
gắn kèm theo một cách nào đó. Khi nhắc tới An Dương
Vương xây thành ốc, chúng ta nghĩ ngay tới Mỵ
Châu, Trọng Thủy, nỏ thần…
Một
KG có thể được xây dựng theo một khung đặc biệt như các
khung
một sới vật, một trận bóng bàn, những cuộc
đấu thể thao... Trong mỗi khung đó lại có thể là những
thang độ, những sơ đồ h́nh ảnh, những
cặp đối kháng, những đồ vật chuyên
dùng.
Những
KG được cấu
tạo, điều chỉnh trong tâm trí và bộc lộ qua diễn
ngôn. Những KG này liên kết
với
nhau theo nhiều kiểu ánh
xạ, thường gặp
nhất là hai
ánh
xạ đồng nhất và tương tự. Có thể
cho rằng ở cấp độ thần kinh, những KG là một tập hợp những
mạng hoạt động thần kinh có kết nối giữa
các yếu tố tương ứng. Theo cách nh́n này những
KG làm việc trên trí nhớ
nhưng được kiến tạo từng phần qua
những hoạt hóa cấu trúc từ kư ức.
Khi
những yếu tố và những quan hệ của một
KG được thiết lập
như một chỉnh thể mà chúng ta đă biết, chúng
ta nói rằng KG này
được đóng trong một khung. Chẳng hạn,
trong khung “giao dịch thương mại” có tiểu khung
cho câu “cô Ba mua hàng ở siêu thị X”.
2.2. Kết
nối không gian tâm trí: Nguyên lư Truy cập (Access Principle)
Khi
nói: “Lúc 15 tuổi tôi đă cao 1,7 mét”, chúng ta đă tạo ra hai không gian tâm trí:
một là tôi hiện nay và hai là tôi lúc 15 tuổi,
đồng thời thực hiện một kết
tử đồng nhất kết
nối giữa tôi hiện
nay với “tôi”
lúc 15 tuổi bất kể chúng khác nhau ở hai thời điểm. Kết tử đồng nhất
dùng để kết nối các
yếu tố của hai
KG tâm trí. Điều này không hàm ư rằng những
yếu tố được
kết
nối ở hai KG có
cùng những tính chất hoặc thuộc tính. Đây là sự khác biệt giữa
hai khái niệm “KG tâm trí” và “thế
giới khả hữu” (possible world). KG chỉ là một mô h́nh nhận
thức lư tưởng chứ không tŕnh bày những sự kiện thực trong cuộc
sống.
Nguyên
lư truy cập[2] là
một tính chất cốt lơi của ngôn ngữ, của những
cấu trúc nhận thức và kết nối khái niệm. Nó nói rằng một tên riêng, một biểu thức miêu tả tên riêng hay một
phần tử trong KG này có thể dùng để truy cập
(đồng nhất) với một phần tử đối
ứng trong một KG khác. Nguyên lư này như sau:
“Nếu
hai phần tử a và b được liên kết bởi kết
tử F (b = F(a)) th́ phần tử b có thể
được đồng nhất bằng sự gọi
tên, sự miêu tả, hay là sự trỏ ra qua đối ứng
a của nó” [7, tr.41].
Phần tử a có thể
đồng nhất với chính nó, b = a. Đây là trường
hợp của những đại từ phản thân
như himself, herself, itself…tự (em bé tự rửa mặt), ḿnh
(cô Ba nh́n ḿnh trong
gương). Nhờ chấp nhận phép truy cập “một yếu tố đồng nhất với
chính nó”
mà Fauconnier (1994) giải thích được những hiện
tượng ngữ pháp liên quan tới các đại từ phản thân [7].
2.3. Những
KG tâm trí trong
diễn ngôn
2.3.1. Khi nói “Thúy Kiều yêu Kim Trọng”, chúng ta đă tạo ra
một KG
Cơ sở có hai phần tử a = Thúy
Kiều và b= Kim
Trọng. Với kiến
trúc nền “a yêu b”, [Thúy
Kiều và Kim
Trọng là hai vai kết
nối với nhau qua hàm YÊU, được miêu tả thành
khung YÊUab] cùng nhiều thông tin mặc định
có từ nền văn hóa của chúng ta. KG
này được
biểu hiện trong một mô h́nh
nhận thức sau: {a,b}▫ [a-Thúy Kiều, b-Kim Trọng, YÊUab]
(H́nh 2)
Những
phương thức xây dựng không gian kiến tạo. Ở
mục 2.1. chúng ta nói nhờ các trạng ngữ mà trong hai câu (1e), (1g) chúng ta
đă kiến tạo ra
4 KG. Thế nào là một không
gian kiến tạo (Space
builders)? Một không gian kiến tạo là một
KG nhờ một biểu thức ngữ pháp mở ra một
KG mới hoặc làm thay đổi tiêu điểm của
một KG đă biết. Có nhiều phương thức ngôn ngữ để xây dựng một không
gian kiến tạo .
Trong số này có: trạng ngữ
(ngoài đó+ S; vào năm 2020 + S); cụm giới ngữ (trong số này + S; theo quan điểm của ông ấy
+ S; Với những sự kiện
đó + S), một phức hợp
chủ từ
- động từ (Họ tin rằng
+ S, cô Ba nghĩ + S), liên từ + mệnh đề
(Nếu...th́ + S; Giá như + S; Do vậy
+ S;
Vậy là + S).
S là một câu.
Th́ và thức đóng vai tṛ quan trọng để xác định
đó là loại không gian nào trong tiêu điểm, chúng kết
nối với cơ sở, có tính truy cập, và những đối ứng
cục bộ dùng cho việc nhận diện.
Những cấu trúc ngữ
pháp chứa TGĐ, những
bộ phận câu mở rộng hoặc
chêm xen là những tín hiệu
báo rằng một KG mới có thể được đưa vào ở
những không gian lân cận.
Những từ t́nh thái cũng
được dùng để tạo ra một KG kiến tạo. Giả
sử có cuộc thoại về Kim Trọng và Thúy Kiều.
Có phát ngôn sau: “Có lẽ Thúy Kiều
yêu Kim Trọng”. Từ
“có lẽ” tạo ra một
KG Kiến tạo M - KG khả năng- có liên quan đến
KG
cơ sở B “Thúy Kiều yêu Kim Trọng”. KG khả năng M này
có hai phần tử a’ và b’ là hai đối ứng của a và b, chúng được
nhận diện từ hai tên gọi Thúy Kiều, Kim Trọng
nhờ Nguyên lư Truy cập. KG mới M này
được kiến tạo trong khung “x yêu y” qua hai yếu tố a’, b’.
Tương tự, kư hiệu YÊU a’b’ chỉ cấu trúc nội
tại gắn vào KG M,
mà các phần tử a’, b’ trong M phù hợp với KG YÊU (qua
những vai ngữ pháp của “yêu” và “được yêu”).
2.3.2. Những khái niệm và kư hiệu
T́nh huống
của diễn ngôn [8, tr.37]: Một biểu
thức ngôn ngữ không có
ư nghĩa tự thân, đúng hơn nó có ư nghĩa tiềm năng.
Chỉ qua toàn bộ diễn ngôn và đứng trong một
ngữ cảnh th́ ư nghĩa này mới được bộc
lộ hoàn toàn trong những
cấu trúc nhận thức phức hợp. Nó bao gồm việc tạo ra những miền cấu trúc nội
tại được kết nối qua những kết tử. Điều này được thực
hiện trên cơ sở của những mạng lưới
ngôn ngữ, ngữ cảnh và t́nh huống. Những mạng ngữ pháp là một
quá tŕnh kiến tạo đại lược nên tự nó
không đủ để xác định ngữ nghĩa.
Có thể nói một biểu thức th́ tạo sinh ra nghĩa: Khi một
thông tin ngữ pháp tạo ra nó được ứng dụng
cho một t́nh huống nhận thức nhất định
th́ hàng loạt t́nh huống mới trên nguyên tắc là có thể
(tức là, so sánh được với mạng ngữ
pháp), một trong số đó có thể sinh ra cấu trúc ngầm ẩn mới
trong diễn ngôn.
Theo cách tiếp
cận này tính mở của cấu trúc là một quá tŕnh
liên tiếp các t́nh huống nhận thức: mỗi t́nh huống
lại đưa tới một t́nh huống mới theo áp
lực của ngữ cảnh và ngữ pháp. Một biểu
thức ngôn ngữ, đi vào diễn ngôn ở trạng thái
n sẽ bắt buộc có một cấu tạo của một t́nh huống
mới ở trạng thái n-1 trước đó và kèm
hàng loạt thành tố ngữ dụng.
T́nh huống
này có một đặc điểm quan trọng là thông tin từng bộ phận liên quan
tới những lĩnh vực (domains) khác nhau.
Dưới
dạng lược đồ điều tŕnh bày ở mục 2.3.2. được
miêu tả như H́nh 3 dưới đây:
H́nh
3
(Nếu vẽ KG bằng đường tṛn sẽ có
đường
đứt đoạn
từ B tới M nói rằng trong mạng của những KG
diễn ngôn KG M có quan hệ với KG B.)
Cấu trúc của
KG B, được
gọi là KG cha,
chuyển mặc định sang KG mới M là không gian con của B. Trong ví dụ này cấu trúc của hai phần tử a và b trong B với
hai tên gọi Thúy Kiều và Kim Trọng liên kết với hai đối ứng
a’ và b’. Sự chuyển mặc định được
gọi là tối ưu khi thực
hiện cho sự mở rộng sang KG mới mà không gặp cấu
trúc tường minh mâu thuẫn nào. Chẳng hạn: nếu trong B có
cấu trúc tường
minh về
hành vi thù địch của Kim Trọng với Thúy Kiều
khiến Thúy Kiều không
yêu Kim Trọng th́ điều này không
chuyển dịch được tới KG mới M v́ nảy sinh mâu thuẫn với
cấu trúc tường minh YÊUa’ b’. Những tên gọi
cũng không chuyển dịch được nếu nó bị
loại bỏ một cách tường minh trong KG mới. Chẳng
hạn, ở một chỗ nào đó trong diễn ngôn có
câu: “Thúy Kiều và Kim Trọng trong thực tế chính là Hoạn
Thư và Thúc Sinh” th́ tên gọi Thúy Kiều và Kim Trọng cũng không chuyển
dịch từ B sang M được.
Ví dụ này cũng nhấn mạnh rằng a’ và b’
được truy cập qua
a và b từ KG Cơ sở
theo Nguyên lư Truy cập.
2.4. Vai tṛ của KG trong ngôn ngữ học nhận
thức
2.4.1. Sự
điều phối diễn ngôn
Những KG là một cơ chế động phát triển liên tục xuyên suốt quá
tŕnh diễn ngôn trên cơ sở mạch chuyện và những
thông tin ngôn ngữ cũng như thông tin ngoài ngôn ngữ. Sự phát triển liên tục
của cấu trúc nhận thức trong diễn ngôn khiến
những quan hệ ngữ pháp trong một câu cũng thay
đổi theo. V́
vậy chúng thay đổi rất phức tạp.
Có 3 khái niệm
động then chốt xuyên suốt quá tŕnh này là 3 vai: KG Cơ sở; Điểm nh́n và
Tiêu điểm. KG Cơ sở
làm điểm xuất phát cho những KG kiến tạo. Trong quá tŕnh diễn ngôn KG Cơ sở luôn luôn có thể quay trở lại. Ở mọi
thời điểm cấu tạo câu đều có một KG phân biệt, KG mà từ đó những KG
khác được tiếp nhận, cấu trúc hay là tạo thành, được gọi là Điểm
nh́n. Tiêu điểm là cái KG
hiện thời đang diễn
ra được nhấn mạnh tức thời khi người
ta đề cập.
Điều cần lưu ư là một KG có thể đồng thời sắm nhiều vai.
Chúng ta minh họa
điều này qua diễn ngôn (2):
(2) “Câu chuyện về lực
sĩ Achilles và con rùa:
“Achilles
sees a tortoise. He chases it. He thinks that the tortoise is slow and that he
will catch it. But it is fast. If the tortoise had been slow, Achilles would
have caught it. Maybe the tortoise is really a hare” [8,
tr.44].
Tạm
dịch: “Achilles (nh́n) thấy,
một con rùa. Anh ta đuổi theo nó. Anh ta nghĩ rằng con rùa th́ chậm
chạp và sẽ bắt được nó. Nhưng nó lại
rất nhanh. Nếu con rùa chậm chạp, Achilles đă tóm
(cổ) được nó. Có lẽ con rùa thực ra là một
chú thỏ rừng.”
Trong
(2) có nhiều KG tâm trí. Xuất phát là KG
Cơ sở ứng với hiện thực Achilles
(nh́n) thấy một con rùa. Nó cũng là Điểm nh́n và Tiêu
điểm của
diễn ngôn này.
Cấu trúc nhận thức của nó là chuỗi sau đây: (2a) - (2b) - (2c) - (2d) -
(2e) - (2f)
(2a) Achilles sees a tortoise
Tạm
dịch: Achilles(nh́n) thấy một
con rùa.
Achilles
và “con rùa” là hai phần tử nền a
và b. Chúng được đưa vào KG Cơ sở ngay từ đầu. Hành động “ sees” tạo ra khung SEE (THẤY)
với hai phần tử a (chủ thể
hành động thấy)
và b (đối
tượng được thấy).
Chúng ta có KG:
(H́nh 4) ≈ {a, b}▫[a
Achilles, b con rùa, THẤY a b]
Thông
tin nền cho biết Achilles là người c̣n rùa là động
vật. Điều này cho phép ta dùng
phép thế he và
it lần lượt đồng
nhất với a và b trong KG
Cơ sở để thành
câu (2b):
(2b)
He chases it.
Tạm dịch:
Anh
ta đuổi theo nó.
Câu
này bổ sung vào cấu trúc nội tại của KG Cơ sở.
Chúng
ta có KG: {a, b}▫[a Achilles, b
con rùa, THẤY a b, BẮT a b]
KG
Cơ sở này kéo dài đến câu (2c) khi chúng ta kiến tạo KG mới
M:
(2c) He
thinks that the tortoise is slow and that he will catch it.
Tạm dịch: Anh ta nghĩ rằng con rùa th́
chậm chạp và sẽ bắt được nó.
“He
thinks” kiến tạo ra KG niềm tin M {a’,b’} có quan hệ nội tại với KG cơ sở B
là câu “con rùa th́ chậm” thông báo mở đầu về ư
nghĩ của Achilles. Ở
đó a’ÎM và b’ÎM là
những đối ứng của a và b từ KG B;
Ư nghĩ tiếp theo là KG kiến tạo W {a”, b”} tức là câu “anh ta sẽ bắt/tóm được nó” (he will catch it). KG W này xảy ra trong tương lai (nên dùng từ
will). Ở đó, a”Î
W và b”Î
W là những đối
ứng của a’ và b’ trong
KG M. Hiện tại Achilles đang ở trong B, nên sự
quy chiếu thời gian trong B này đă được
lưu lại trong M ở th́ hiện tại, đối lập với cấu trúc sự
t́nh sau đó “sẽ bắt”
ở thời
tương lai trong W. Những điều này được thể
hiện trong H́nh
5:
Như vậy, mạch
suy nghĩ (quá tŕnh ánh xạ giữa các KG) của Achilles sẽ trải qua 3 KG:
Cơ sở B –
Niềm tin M – Tương lai W như H́nh
5:
H́nh 5
Về
nguyên tắc, Điểm nh́n từ B được giữ lại
ở trạng thái tiếp theo
hoặc chuyển
đổi tới Tiêu điểm mới của
KG M.
[2d] But it is fast.
Tạm dịch: Nhưng nó lại nhanh.
Từ nhưng trong câu này đưa chúng ta trở lại
KG Cơ sở B. Nghĩa là khung của KG Cơ sở bây giờ là: [a
Achilles, b con rùa, THẤY a b, BẮT a b, NHANH b]. Theo
mặc định, những KG được coi là không
khác biệt nhau về cấu trúc (sự Tối ưu Yếu).
Nhưng cấu trúc tường minh trong B
có thuộc tính [NHANH b] đối lập với
[CHẬM
b’] trong M. Do vậy, tín hiệu từ vựng ngữ dụng
tường minh này đă
loại bỏ sự mặc
định tối ưu yếu.
Hai
cấu trúc B và M khác nhau. Với
trạng thái này diễn ngôn giữ lại ĐIỂM NH̀N c̣n TIÊU ĐIểM đă chuyển đổi trở
lại B.
H́nh 6
[2e] If the tortoise had
been slow, Achilles would have caught it.
Tạm
dịch: Nếu con rùa chậm chạp, hẳn Achilles đă tóm
(cổ) được nó.
Liên từ if (nếu) tạo ra
KG giả định H. Ngoại
biên had been, th́ quá khứ hoàn thành, chỉ ra rằng KG H là phi thực (đối với
cơ sở B). Trong đó có cấu
trúc mới xuất hiện là [SLOW b1 và CATCH a1b1 ] (CHẬM b1 và BẮT a1b1 ).
Cấu trúc thứ nhất (phần giả thuyết – protasis – của
câu điều kiện) là một
điều kiện ánh xạ. Nó cho phép chúng ta lập luận
theo TĐL MP[3]
trong KG H ở diễn
ngôn tiếp theo: Nếu một KG mới kết hợp với
H theo điều kiện này nó sẽ có được cấu
trúc bổ sung từ H ở diễn ngôn tiếp
theo. Diễn ngôn
lúc này theo thức tường
thuật (indicative mood). Chúng
ta thấy một thức mới ở phần thứ hai của câu (2e) là thức
điều kiện would have caught (cũng vẫn ở th́ quá khứ hoàn
thành như ánh xạ điều kiện ở tiền
đề). Thức
điều kiện này là một tín hiệu ngữ pháp cho biết KG phi thực này tất yếu trở thành TIÊU ĐIỂM (FOCUS). Ở chi tiết sau đó điều này cũng
xảy ra lần nữa. Kết quả là chúng ta có lược
đồ cấu trúc như H́nh
7.
Như trước
đây, Điểm nh́n vẫn không thay đổi, nó được
giữ nguyên trong KG Cơ sở,
từ đây kiến trúc của KG khả năng P
tiếp theo sẽ được thực hiện. (h́nh 7)
H́nh 7
[2f] Maybe
the tortoise is really a hare.
Tạm dịch: Có lẽ thực ra con rùa là một
chú
thỏ rừng
Điểm nh́n
vẫn như
KG
Cơ sở. Từ maybe
(có
lẽ) kiến tạo
một
KG t́nh thái có
thể P,
trong đó đối ứng của
con rùa là một chú
thỏ rừng. Nguyên lư Truy cập hoạt
động như sau: phần tử đối ứng b2
trong KG mới P được truy cập từ Cơ sở nhờ sự miêu
tả từ gốc b (con rùa). Chúng ta đi đến chu cảnh cuối cùng như
H́nh 8:
H́nh 8
2.4.2. Sự tổ chức diễn ngôn: Th́ và Thức
Ví dụ (2)
cho thấy một diễn ngôn gồm nhiều câu sẽ được biểu
hiện qua một mạng các KG kết nối với nhau.
Lược đồ chung để xây dựng những KG
mới đều liên quan đến những KG đă tồn
tại.
Một đoạn
diễn ngôn được bắt đầu từ một
KG
cơ sở B. Nó tạo ra KG con M1. (B
được gọi là
không gian cha, c̣n M1 là một KG con của
B), kế tiếp
M1 tạo ra KG con M11
và cứ vậy tiếp tục. Quay trở lại KG
cơ sở B người ta có thể mở ra một
KG con mới là M2,
rồi M21
là không gian con của M2 tức là không gian cháu của B…
quay trở lại B lần thứ i, th́ mở
ra KG
con Mi, rồi những KG cháu chắt Mij, Mijk
vân vân. Chúng tạo
thành một mạng diễn ngôn. Có thể
tŕnh bày điều trên
đây thành một sơ đồ cây
như H́nh 9
dưới đây:
H́nh 9
Ở một trạng
thái nào đó của diễn ngôn, có một KG là cơ sở
cho toàn cục,
và một trong những KG (có thể là chính không gian cơ sở) này trở thành tiêu điểm.
Kiến trúc ở trạng thái tiếp theo sẽ liên quan
đến cả KG Cơ sở lẫn KG
Tiêu điểm. Diễn ngôn chuyển dịch theo mạng
lưới các KG, điểm nh́n và tiêu điểm thay
đổi khi chúng ta đi từ một KG sang KG kế tiếp. Nhưng ở mọi lúc, KG
Cơ sở luôn cho ta khả năng chuyển sang một
KG
kiến tạo khác.
Những KG được
h́nh thành năng động trong quá tŕnh diễn
ngôn. Th́ và thức trong những không gian đó
liên quan chặt chẽ với nhau. Điều
cần
lưu ư là sự dùng các th́
không chỉ phản ánh mối quan hệ thời
gian cục bộ giữa những không gian kế cận
nhau mà c̣n phản ánh khoảng
cách nhận thức, tức là dù là một KG giả định hay phi thực th́ vẫn
tôn trọng KG cha của chúng.
Trong
câu tiếng Anh dưới đây động từ ở th́ hiện tại, nhưng trong nhận thức chúng
ta lại thấy hành động ở thời gian
“tương
lai[NDD1] ”.
(1) a. The boat leaves next
week. (Tuần tới, tàu sẽ rời bến.)
b.
When he comes tomorrow, I'll tell him about the party. (Ngày mai anh ấy tới, tôi sẽ nói
(chuyện) với anh ấy về buổi gặp mặt/bữa
tiệc)
c.
If I see him next week, I'll ask him to call you. (Nếu tuần tới gặp anh
ấy, tôi sẽ bảo anh ấy gọi cho bạn/cô/anh/chị)
C̣n trong các câu (2) dưới đây th́ hiện tại của động từ lại
tương ứng với thời gian “quá
khứ” của sự kiện:
(2) a.
I'm walking down the street one day when suddenly this guy walks up to me (Hôm nọ, khi đang xuống đường/
khi tôi đang dạo phố, (bất th́nh ĺnh) lăo này đột nhiên đi tới trước mặt tôi...)
b.
He catches the ball. He runs. He makes a
touchdown. [Phóng viên tường thuật trận
đấu bóng chày]: Anh ta chụp
lấy trái banh. Anh ta chạy.
Và anh ta đă ghi bàn)
Ở những
câu (3) dưới đây t́nh h́nh lại
khác. Th́ quá khứ lại ứng với hành động ở thời gian
“hiện tại” trong nhận thức:
(3) a. Do you have
a minute? I wanted to ask you a question. (Anh/Bạn có rảnh không? Tôi muốn hỏi bạn một chuyện)
b. I wish I lived closer
to my family, now. (Tôi) ước ǵ bây giờ (tôi) sống
gần gia đ́nh của ḿnh hơn)
c. If I had time now, I
would help you. (Nếu
có thời gian tôi sẽ giúp bạn)
Ở câu (4), th́ quá khứ lại ứng với
thời gian “tương lai” trong nhận thức:
(4) a. If I
had the time next week, I would go to your party. (Nếu tuần tới rảnh, tôi sẽ tới dự
buổi chiêu đăi của bạn)
b. I can't go
to the concert tonight. You'll have to tell me how it was. (Tôi không thể đi dự buổi ḥa nhạc tối nay.
Anh sẽ phải kể cho tôi về
nó nhé!)
Nhưng trong câu (5), động
từ ở th́ “tương lai”
lại được nhận thức ở thời
“hiện tại”:
(5) a. That
will be all for now. (Bây giờ, đó là tất cả.)
b. He's not on the train. He will have missed it. (Nó không có ở trên tàu.
Nó sẽ lỡ mất chuyện
này)
Dinsmore (1991), sau đó là Cutrer (1994) đă xây dựng cách tiếp cận
đặc sắc những hiện tượng về th́
và thức dựa trên sự kết nối các KG. Họ đă chỉ ra rằng
phần lớn chức năng thời gian trong các ngôn ngữ
được xây dựng theo thời gian cục bộ
liên quan đến thứ
tự những KG kế
cận nhau và giữ được những thay đổi
về điểm nh́n và tiêu điểm. Chẳng hạn, với phạm
trù PAST (quá khứ),
Cutrer cho rằng
PAST áp dụng vào KG N th́:
i)
N
nằm trong TIÊU ĐIỂM
ii)
Đỉnh
cha
(x. §2.4.2) của N sẽ là
ĐIỂM NH̀N
iii)
Thời
gian của N diễn ra
trước ĐIỂM NH̀N (tức là trước đỉnh
cha của N)
iv)
Những
sự kiện hay là thuộc tính tŕnh bày trong N là SỰ
KIỆN trong
quan hệ với KG ĐIỂM
NH̀N cha. Dẫn
theo [8, tr.75]
Chúng
ta xét diễn ngôn (3): Nhung 27 tuổi. Cô
học ở
nước ngoài. Năm 2017,
cô ấy học
ở Edinburgh. Năm 2019, cô ấy chuyển tới học
ở Đại học Kinh
tế London.
Vậy là cô ấy
sống ở Scốtlen
(Scotland) 2 năm. Trận đại dịch Covid-19
cô ấy mới trở về Hà Nội. Luật của Cutrer không rơ khi nh́n qua tiếng Việt, một ngôn ngữ không có phạm trù th́, nhưng nếu chuyển đoạn trên
sang tiếng Anh th́ điều này rơ ràng hơn: “Nhung is 27 years old. She has studied overseas. In 2017, she
studied
in Edinburgh. In 2019, she moved to study at the London School of
Economics. So, she has lived in Scotland for 2 years. She just
returned to Ha Noi after the outbreak of the Covid-19 pandemic.”
Bắt đầu là KG cơ sở
“Nhung
27 tuổi”, đó là Điểm nh́n và cũng là
Tiêu điểm. Chúng ta kiến
tạo KG Sự kiện
bổ sung “Cô ấy
học ở nước
ngoài” [được nhận
thức là trong quá khứ]. Trạng ngữ “Năm 2017” kiến tạo KG Tiêu điểm
“cô học
ở
Edinburgh.” [cũng được được nhận thức là trong quá
khứ]. Tiêu
điểm này trở thành Điểm nh́n để kiến tạo KG mới
tiếp theo (nhờ trạng ngữ “Vào
năm 2019”) “cô ấy
chuyển tới học ở
Đại học kinh tế Luân Đôn”. KG này trở thành Tiêu
điểm cho KG Sự kiện tiếp
theo “cô ấy
sống ở Scốtlen 2 năm” (được
kiến tạo qua kết tử “Vậy
là”). KG kiến tạo mới
này trở thành Tiêu điểm mới nữa. Người nói
quay lại KG cơ sở, là Điểm nh́n, và kiến
tạo một KG Sự kiện mới [cũng được nhận thức là trong quá
khứ]
đồng thời là Tiêu điểm nhờ một
tín hiệu tạo câu “Trận đại dịch...” (và
thành trạng ngữ “after+NP” khi chuyển sang tiếng Anh)
Trong công tŕnh [8,
tr.72-98], Fauconnier
đă dành cả chương 3 để tŕnh bày những vấn
đề về th́ và thức trong ngôn ngữ.
3.
Những
vận dụng khái niệm KG tâm trí.
Nhờ phát hiện ra nguyên
lư truy cập giữa những phần tử của hai
không gian có liên hệ nhau mà nhiều hiện tượng
ngôn ngữ - logic phức tạp khiến các nhà ngôn ngữ
học h́nh thức, logic và triết học nhọc công khảo
sát, bàn thảo hóa ra chỉ là
những t́nh huống riêng của nguyên lư truy cập đă
được giải đáp rơ ràng và triệt để
như những hiện
tượng trong suốt hoặc mờ quy chiếu (referential
opacity and transparency)
hay là phép chiếu xạ TGĐ.
3.1. Trong diễn ngôn, câu chứa những đặc điểm
ứng với những chức năng rất đa dạng
khác nhau. Đó là:
-
Chỉ
ra không gian nào là tiêu điểm, nó thuộc kiểu ngữ
pháp th́ và thức nào.
-
Tạo
không gian và phần tử theo đường đi trong một
mạng không gian thế nào;
-
Cấu
trúc những không gian nội tại thế nào;
-
Những không gian này liên kết bên ngoài với nhau qua các kết tử thế nào.
-
Tạo
những tín hiệu cấu trúc (như TGĐ) có thể
mặc định những không gian ở
bậc cao hơn thế
nào.
-
Truy
cập những phần tử và đối ứng của
chúng (những miêu tả xác định, tên riêng, đại
từ thay thế-đại từ lặp) thế nào.
-
Đưa
vào những vai và kết nối giá trị (values) cho chúng thế
nào.
-
Thiết
lập những điều kiện ánh xạ cho những
không gian cho phép những suy luận diễn dịch (từ nếu chẳng hạn) thế
nào.
-
Loại
bỏ những phép kéo theo mặc định thế
nào. (ví dụ: từ nhưng
phản ánh quan hệ nghịch nhân quả).
3.2.
Công tŕnh [5]
cho thấy khái niệm KG tâm trí có giá trị rộng răi trong
nghiên cứu ngôn ngữ học
nhận thức như thế nào. KG được vận
dụng để nghiên cứu ngữ nghĩa như công tŕnh phân loại từ nổi tiếng
của Lakoff (1996), của Brugman (1996)…Nó cũng được vận dụng
vào nghiên cứu ngữ pháp, như ngữ pháp nhận thức
với hàng loạt công tŕnh của
Langacker (1987, 1990, 1991, 2008, 2003); van
Hoek (1997); Taylor (2002), lư thuyết ẩn
dụ của Lakoff (1996), ngữ dụng học và xă hội ngôn ngữ
học của Encrevé (1988) và Rubba (1996),
lư thuyết truyện kể và diễn ngôn.
Những phép ánh xạ và kết nối giao không gian tâm trí
được dùng thường xuyên hằng ngày trên mọi
lĩnh vực của khoa học nhận thức. Những
nghiên cứu ngữ pháp tinh tế về câu điều kiện
được thực hiện bởi Dancygier (1998); rồi Dancygier and Sweetser [3],
Epstein (2001) nghiên cứu diễn
ngôn, Coulson (2001) nghiên cứu sự chuyển
đổi khung (frameshifting)…
3.3. Ẩn dụ
3.3.1. Bước ngoặt trong nghiên cứu
ẩn dụ: Lakoff và Johnson
3.3.1.1. Ẩn dụ ư niệm
Lakoff và Johnson
xây dựng mô h́nh hai không
gian nguồn và đích trong Metaphors
We live By viết
năm 1980. Hai ông miêu tả ẩn dụ như sau: “Về bản chất, ẩn dụ là sự hiểu
và cảm thấy một sự vật này qua cách nói của
một sự vật khác” (The
essence of metaphor
is understanding and experiencing one kind of thing in terms of another)
[4, tr.5] Tuy
nhiên, lần tái bản gần đây nhất (2011), các tác giả đă thêm
chương Ẩn
dụ và không gian ḥa nhập để giới thiệu mô h́nh ẩn dụ của
Fauconnier và Turner.
3.3.1.2. T́nh
h́nh nghiên cứu ẩn dụ ở Việt Nam
Sau công tŕnh của G. Lakoff và M.
Johnson, những nghiên cứu về ẩn dụ
ở Việt Nam hầu
như đều tŕnh bày theo quan điểm này. Trần
Văn Cơ (2009) trong khảo luận [2] đă nói rơ
công tŕnh này theo quan niệm của
G. Lakoff và M. Johnson. Tác giả viết “Tư tưởng chủ đạo của
học thuyết về ẩn dụ tri nhận là ẩn dụ
hàm ư việc hiểu một
lĩnh vực (đối tượng) này qua lăng kính của
một lĩnh vực (đối tượng) khác. Ẩn
dụ có thể hiểu
như sự chuyển từ lĩnh vực NGUỒN
(source) sang lĩnh vực ĐÍCH (target)” [2,
tr.342]. Như vậy,
về thực chất,
tác giả hiểu
ẩn dụ là “sự ánh xạ
từ không gian nguồn vào không gian đích”.
Trong bài “Ẩn dụ thời gian thực vật
trong tiếng Hán và tiếng Việt”, Vơ Thị Mai Hoa
(2017) chỉ ra điểm chung giữa ẩn dụ ư niệm
chỉ thời gian trong tiếng Hán và tiếng Việt là
các ẩn dụ này đều được xây dựng
trên cơ chế tri nhận của con người về
thực vật. Cụ thể hơn, con người dùng kiến
thức nền về sự thay đổi của thực
vật và chu ḱ sinh trưởng tự nhiên của thực
vật để tri nhận thời gian. Từ đó, các
khái niệm của phạm trù thời gian cụ thể
hơn và dễ hiểu hơn thông qua các khái niệm của
phạm trù thực vật. Dựa trên các ngữ liệu
thu thập được, bài viết tập trung
đưa ra các ánh xạ giữa miền nguồn (thực
vật) và miền đích (các giai đoạn của một
đời người). Tác giả đưa ra vài ẩn dụ
ư niệm, tiêu biểu như: “THỜI GIAN CỦA NGƯỜI
PHỤ NỮ LÀ THỜI GIAN PHÁT TRIỂN VÀ TỒN TẠI CỦA
HOA”. Miền nguồn là
các thời ḱ ra
nụ, nở hoa, hoa tàn, hoa rụng lần lượt tương ứng với Miền
đích là
các lứa tuổi thiếu niên nhi đồng, thanh xuân, già, kết thúc cuộc đời.
Lương Ngọc
Khánh Phương (2018: “Tính đa dạng văn hóa của ẩn
dụ về phụ nữ trong tiếng Việt”) phân tích
miền nguồn và miền đích của các ẩn dụ
ư niệm liên quan đến phụ nữ trong tiếng Việt
(ngữ liệu: tác phẩm văn chương hiện
đại; tạp chí, báo chí); từ đó chỉ ra tính
đa dạng của văn hóa. Các ví dụ về ẩn dụ
ư niệm liên quan đến phụ nữ như: phụ nữ
là động vật/thực vật/thức ăn/đồ
vật.
Đặng Thị
Hảo Tâm (2012: “Ẩn dụ ư niệm vàng trong tiếng Việt
nh́n từ góc độ miền nguồn”) nh́n nhận ư niệm
“vàng” với tư cách là miền nguồn để chỉ
ra cách thức người Việt tư duy và nhận thức về các sự vật
hữu quan có liên quan ư niệm này: “vàng” có thể đem
đến hạnh phúc và cả bất hạnh. Tác giả
khảo sát các thuộc tính của “vàng” cũng như các
trường từ vựng chỉ “vàng”, rồi dành phần
lớn bài viết để tập trung phân tích miền nguồn
“vàng: trong tiếng Việt (dựa trên các luận cứ
liên quan đến văn hóa Việt Nam) để làm sáng tỏ
luận điểm cách thức người Việt Nam ư niệm
hóa sự vật “vàng” (cơ sở, bản chất cơ
chế ánh xạ của ẩn dụ ư niệm “vàng”)
cũng như nỗ lực làm rơ cấu trúc nghĩa của
trường từ vựng chỉ vàng trong tiếng Việt. Về cơ bản,
Đặng Thị Hảo Tâm dựa trên điểm chung (quư hiếm) của ba nét
nghĩa chính thuộc sự vật “vàng”: a) kim
loại quư, b) cái đáng
quư,
c)những
sản phẩm làm từ giấy (vàng mă) để chỉ ra các ẩn
dụ ư niệm phổ biến trong tiếng Việt có liên
quan đến sự vật “vàng” như: Cái quư giá là vàng, con người là vàng, thời gian là
vàng… Dựa vào các ngữ liệu t́m được (tục
ngữ, ca dao, văn bản báo chí..), tác giả đă kết
luận “vàng” là miền nguồn chung của nhiều ẩn
dụ ư niệm của người Việt (quan niệm,
triết lư của người Việt về vàng) dù miền đích khác nhau.
Nguyễn Ngọc
Vũ (2012: “Ẩn
dụ ư niệm về quyền lực và sự kính trọng
trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt”) đă tiến
hành khảo sát vai tṛ của
các ẩn dụ ư niệm về quyền lực và sự
kính trọng trong thành ngữ chứa yếu tố “tay”, “mặt”,
“mũi” của tiếng Anh và tiếng Việt để
đánh giá vai tṛ của ẩn dụ ư niệm trong việc
tạo lập nghĩa hàm ẩn của thành ngữ trên
cơ sở kế thừa thành tựu bước đầu
của việc nghiên cứu thành ngữ từ quan điểm
tri nhận luận. Tác giả đă chỉ ra các ẩn dụ
ư niệm tiêu biểu trong tiếng Anh và tiếng Việt
như: “Nắm cái ǵ
đó trong tay là có quyền kiểm soát”; “Khuôn
mặt là danh dự của con người”; “Giương
mũi lên là thể hiện niềm tự hào”. Ông
cũng kết luận quá tŕnh ư niệm hóa trong tư duy (ví
dụ: miền ư niệm quyền lực và sự kính trọng)
rơ ràng là có tham gia một phần đáng kể vào việc tạo
nghĩa hàm ẩn cho thành ngữ.
Dựa
vào ba nguyên lư cơ bản của tri nhận luận (Thực
thể nào gần gũi nhất th́: 1) xuất hiện
trước nhất, 2)
xuất
hiện nhiều nhất, 3) tầm tác động
lớn nhất), dựa
vào sự xuất hiện yếu tố đậm/nhạt
và cơ sở văn hóa dân gian của người Việt
nói chung, người dân Nam Bộ nói riêng về môi trường
sông nước, tác giả Trịnh
Sâm trong “Miền ư niệm sông nước trong
tri nhận của người Việt” (2011) và
“Miền
ư niệm sông nước trong tri nhận của người
Nam Bộ” (2013) chỉ ra vài phương thức ư niệm
hóa, phạm trù hóa của người Nam Bộ. Những bài viết này nỗ lực nhận diện,
giải thích một số đặc điểm nổi trội
trong tri nhận sông nước của người Nam Bộ
dựa vào tri thức dân gian và nguyên lư “con người là vật
thể” – nghiệm thân. Tác giả nhấn mạnh những
hiểu biết, kinh nghiệm, văn hóa sông nước,
ghe thuyền chính là cơ sở tri nhận luận quan trọng
(miền sông nước là miền nguồn) để xây dựng
các ẩn dụ ư niệm của người Nam Bộ. Tác
giả chú trọng khai thác ngữ liệu ca dao, dân ca, tục
ngữ, một số tác phẩm văn chương Nam Bộ
để làm sáng rơ luận điểm vai tṛ của miền
nguồn sông nước trong việc tri nhận miền
đích (các tổ chức định danh phương tiện
đi lại trên sông nước, văn hóa rượu của
người dân Nam Bộ.) Tác giả cũng đưa ra nhiều luận cứ chứng
minh những điểm tương đồng giữa tiếng
Việt toàn dân và phương ngữ Nam Bộ về cơ
chế ư niệm hóa.
3.3.2.
Fauconnier & Turner: Sự ḥa nhập (hay là tích hợp khái niệm) Fauconnier
phát hiện ra khái niệm không gian tâm trí. Trong những nghiên cứu sau đó ông cùng
với Turner (1995,1996, 1998, 2002) đă xây dựng mô h́nh 4 không gian tâm trí cho
sự ḥa nhập khái niệm,
c̣n gọi là tích hợp khái niệm
[6]. Mô h́nh này có giá trị đặc biệt
cho nhiều công tŕnh nghiên cứu ngôn ngữ học, trong
đó có nghiên cứu ẩn dụ.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
[1] Diệp
Quang Ban, Cognition: tri nhận và
nhận thức – Concept: ư niệm hay khái niệm, Tạp chí Ngôn ngữ, số
2, 2008.
[2] Trần Văn Cơ, Khảo luận -
Ẩn dụ tri nhận, Nxb. Lao động
- Xă hội, Hà Nội, 2009.
[3] Barbara
Dancygier and Eve Sweetser, Mental spaces in grammar: Conditional
constructions, Cambridge University Press, Cambridge, 2005.
[4] George
Lakoff and Mark Johnson, Metaphors we live by, University of Chicago
Press, Chicago, 1980.
[5] Gilles Fauconnier and Eve Sweetser,
Spaces, Worlds, and Grammar, University of Chicago Press, Chicago, 1996.
[6] Gilles Fauconnier and Mark Turner, The Way We
Think, Basic Books, New York, 2002.
[7]
Gilles Fauconnier, Mental Spaces:
Aspects of Meaning Construction in Natural Language, Cambridge University Press, Cambridge, 1994. [Bản in đầu
tiên tên Espaces mentaux, tiếng Pháp, Nhà xuất bản Minuit, Paris 1984, bản tiếng Anh
đầu tiên 1985)]
[8] Gilles Fauconnier, Mappings in thought and language, Cambridge Univerity Press,
Cambridge, 1997.
[9] Leonard Talmy, Figure and Ground in Complex Sentences, Universals of Human Language. Vol. 4. Syntax; Ed. by J. Greenberg, Stanford University Press,
Stanford, CA, 1978.
[10]
Ronald Langacker, Foundations of Cognitive Grammar (Vol1: Theoretical Prerequisites), Stanford University Press, Stanford, CA. Sciences Sociales 71/72:
108–28, 1987.
[1] Thuật
ngữ này cũng chính là thuật ngữ ngôn ngữ học tri nhận mà nhiều người
dùng. Tôi đồng ư với Diệp Quang Ban [Diệp Quang Ban (2008), Cognition: tri nhận và nhận thức
– Concept: ư niệm hay khái niệm, Tạp chí Ngôn ngữ,
số 2/2008, trang 1 – 12] dùng thuật ngữ ngôn ngữ học nhận thức để trỏ
khái niệm cognitive linguistics.
[2]
Trong những công
tŕnh đầu tiên về không gian tâm trí Fauconnier gọi là nguyên
lư đồng nhất – Identification Principle.
[3]
Tam đoạn luận
MP: Nếu a ̃
b,
và a. Vậy th́ (suy ra) b