LẠI_một từ đặc biệt
lý thú
Nguyễn
Đức Dân
Tôi viết từ lý thú như thế này là không
đúng với quy định về cách viết i ngắn
và y dài của Bộ Giáo dục & Đào tạo. Sở
dĩ vậy vì khi đưa ra quy định này Bộ
GD&ĐT lại không chú ý tới quy luật về tính thẩm
mỹ trong nhận thức về con chữ của người
Việt: hình chữ phải
đẹp. Ở đây là sự cân xứng về độ
cao trên dưới trong một từ. Viết lý đẹp hơn viết lí. Mong bạn đọc thông
cảm cho tôi khi “phá rào” viết lý
thú, lý do, lý luận, lý lẽ, đạo lý, kỹ sư, kỹ thuật, kỹ lưỡng…
Tiếng Việt lý thú vì có những
hiện tượng từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ
pháp mới nhìn tưởng như vô cùng phức tạp,
đến nỗi “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt
Nam”, nhưng nhìn kỹ thì có thể giải thích được
bằng quy luật nhận thức
(cognition) đơn giản mà tinh tế, về nghĩa
và những hiện tượng chuyển nghĩa trong tâm thức
người Việt ở một số từ cơ bản.
Trong số này có hai từ ĐI và LẠI.
Xưa nay ĐI, LẠI
được coi là những từ đa nghĩa. Trong TĐTV
(Từ điển tiếng Việt) của Viện Ngôn ngữ (Hoàng
Phê chủ biên), từ lại được
miêu tả là có 12 nghĩa động từ, 2 nghĩa phụ
từ và có 13 nghĩa trong những tổ hợp “lại + X”. Vị
chi 27 nghĩa. Từ đi thuộc 3 loại từ
khác nhau: động từ, phụ từ, trợ từ.
Động từ đi có
18 nghĩa, trợ từ đi
có 4 nghĩa. Và có hơn 40 tổ hợp “đi + X”.
Liệu có tìm được con
đường chuyển nghĩa của từ đi và
lại hay không? Chúng
tôi sẽ chứng minh rằng tất
cả những nghĩa này đều sinh ra từ một nghĩa gốc trong
quá trình nhận thức về
hai từ đi, lại. Trong khuôn khổ bài này, chúng tôi
chỉ trình bày về nghĩa của từ lại.
*
* *
Nghĩa gốc của
hai từ đi, lại được
người Việt nhận
thức như sơ đồ hình ảnh dưới
đây.
Hình trên có nghĩa là: Trong tâm thức người
Việt, “lại” đối lập
với từ “đi”. Chúng chuyển
động theo hai hướng ngược nhau. Đi theo hướng dời
khỏi gốc có mục đích. Lại theo hướng trở lại gốc. Có
ra đi mới có sự trở lại, nên đi là chuyển
động thuận còn lại là chuyển động
ngược. Những điều
trên đây làm nên lược
đồ nghĩa của
chúng. Nhờ sơ đồ
hình ảnh trên chúng ta giải thích dễ dàng được
những nghĩa khác nhau của chúng đã ghi trong TĐTV.
Giả thuyết về hiện
tượng chuyển nghĩa của
những từ chuyển động trong không gian: Không gian hình học chiếu vào thời
gian và những không gian xã hội khác. Nghĩa
là chúng ta nhận thức được
những thuộc tính thời gian, thuộc tính trong tự
nhiên cũng như xã hội trên cơ sở những thuộc
tính trong quan hệ không gian hình học.
*
* *
Những kiểu nghĩa của từ LẠI
Trước
hết, khi nói năng người nói luôn luôn xác định
một điểm nhìn, thường lấy mình làm gốc nhưng
cũng có thể lấy một
điểm nào đó làm mốc định vị, hình thành các
nghĩa 2, 3 (trong TĐTV): “Lại đây với
mẹ”, “Mai tôi sẽ lại
anh chơi”, “Anh lại quán
cà phê trường mình đợi tôi nhé, tôi có việc lại đằng này một
lát”.
Có ra đi mới có sự trở lại.
Do vậy lại trỏ sự
lặp lại một vị trí, một hành động, một
sự kiện hay một thuộc tính, như nghĩa 4,
nghĩa II.1: “Đoạn này phải viết lại”, “Trời lại mưa”. Chuyển về điểm gốc
là chuyển về nơi đã xuất phát. Điều này dẫn chúng ta phát hiện
ra một hiện tượng chuyển nghĩa quan trọng,
nghĩa 12: lại là “trở
về trạng thái ban đầu”. Do vậy, chúng ta bỏ đi được hàng
loạt mục từ “lại
+ x” ghi trong TĐTV: lại
gạo, lại
người, lại giống, lại hồn,
lại sức… Những tổ hợp
từ này sẽ chỉ còn là những ví dụ minh họa giống
như trẻ lại, khoẻ lại, lấy lại
tinh thần, tìm lại họ
hàng … “Ông/Bà lại nhà ạ!”
là lời nói khi tiễn khách trở lại nhà mình, nơi
đã ra đi.
Ra đi rồi trở lại biểu trưng cho
vòng tuần hoàn. Do vậy lại
kết hợp với đi
tạo ra sự tái diễn nhiều lần của một
hành động, một hiện tượng. Đó là nghĩa
5: làm đi
làm lại mãi; suy đi nghĩ lại; Trên đường rất nhiều
người đi lại.
Chuyển động của lại là ngược chiều. Do vậy từ lại được dùng thể hiện những hành
động phản xạ, phản ứng đáp trả, như hai nghĩa 6, 7: trái
banh bật lại; thối lại tiền; cãi lại; phê phán lại;
đánh lại; bắn lại; hòn
đất ném đi hòn chì
quăng lại …
Cú
pháp hình thành từ ngữ nghĩa
Sự lặp lại chuyển thành sự phù hợp
nghĩa. Đây là sự phù hợp
về mục đích, kết
quả hay tính chất. Ngô
Tất Tố viết “Hai ông ấy đã làm nghề tri huyện lại kiêm cả nghễ đào mỏ , chẳng
qua cũng muốn vinh thân như mọi người” (Tác phẩm I). Rõ ràng là hai nghề
“tri huyện” và “đào mỏ” (lấy vợ con nhà giàu) có
cùng mục đích, nghĩa là phù
hợp nhau. Nghề đào mỏ lặp lại mục đích vinh thân như nghề
tri huyện.
Hai từ và, nữa cũng được dùng để nối
những từ có nghĩa phù hợp nhau. Thế là xuất
hiện những cấu trúc cú pháp vừa có từ lại vừa có và, nữa thể hiện hai
đối tượng có nghĩa phù hợp nhau: “A và lại
B” (® A vả lại B), “Khuya rồi, vả lại anh đang mệt, nên đi ngủ
thì hơn”; “A lại B nữa”,
“Chị ấy rất thông minh lại cần cù nữa”; “Đã A lại B”, “Đã rẻ lại
tốt nữa”.
Đi
là
chuyển động thuận còn lại là ngược nên lại chuyển thành một nghĩa mới trỏ
những hiện tượng
ngược đời, trái ngược với thông thường
như các nghĩa II.2, 6 và 7. Từ nhưng, mà cũng thể hiện sự đối
lập nên phù hợp với lại.
Ấy thế là hình thành những cấu trúc cú pháp thể
hiện sự so sánh đối lập về nghĩa: “X
thì A nhưng (mà) Y lại
B”, “Viết chữ quốc ngữ
sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị
rối rít cả lên.” (Nam Cao, Đôi
mắt); “X
thì A nhưng còn Y lại B ”, “Tôi mù nhưng
tôi biết đi con đường sáng, còn người sáng lại đi con đường mù.” (Tiếng Việt, lớp 4)
Thường
thì, những gì ngược với sự nhìn nhận của
mình là người ta nghi ngờ, thắc mắc, chất vấn
và dẫn tới bác bỏ.
Ấy thế là trong
tiếng Việt có những cấu
trúc chất vấn dùng từ lại
để bác bỏ điều ngược
đời, các nghĩa II.2, 11: “Không
A sao lại B?”, “Không nghe tiếng máy bay, sao lại có pháo sáng?” (Nguyễn Minh Châu, Mảnh trăng cuối rừng);
“Sao lại A!”, “Sao tôi lại không biết!”; “Sao cô lại tin những điều
rao giảng ấy!”; “Chả lẽ
A lại x!”, “Anh Viện không giúp người
nhà mình chả lẽ lại đi giúp người
ngoài à?” (phim VTV3, Chủ tịch
tỉnh, t.32); “Thưa cậu thế
chẳng nhẽ làm cái thằng
con giai mà lại không có vợ.”
(Nam Cao, Sống mòn); “A gì mà lại x?”,
“Tiến sĩ gì mà lại
đi cọp bài học viên làm “công trình khoa học” của
mình?
Có phải duyên nhau thì thắm lại
“Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu
hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi/ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh
như lá bạc như vôi” (Hồ
Xuân Hương)
Khi phân tích cái hay
trong bài thơ Mời trầu
này, chưa thấy ai bình luận về từ lại, cái từ không
thay được bằng bất
kỳ từ nào khác mà không làm mất đi ý tứ cốt
lõi của nó: người mời trầu trao niềm mong ước
gắn bó, hòa quyện, quấn
quít, không tách rời nhau. Nghĩa này rất rõ ràng trong
sơ đồ hình ảnh của chúng ta: Trở
lại gốc là chuyển
động hướng tâm, tập
trung, khoảng cách ngắn lại, không gian thu nhỏ lại.
Nghĩa này bao trùm các nghĩa 8, 9, 10.
Vì vậy có thể dùng từ lại đứng sau những
chuyển động hoặc hành động nào được
nhìn nhận là hướng tâm, tập trung, làm không gian, thể
tích của đối tượng thu nhỏ lại: gom lại, dồn cục lại,
tập hợp lại, xúm lại, cụm lại, dúm lại,
chất đống lại,
vun lại, thót bụng lại,
thu mình lại, nhắm mắt lại, trói lại, gói lại, cuộn lại,
gấp lại, đọng lại, nhỏ lại, ngắn lại, co lại, tóp lại,
má hóp lại, teo lại, mắt ríu lại, người choắt lại, quắt lại,
hẹp lại, đặc lại, đường cô lại, khít lại…Và “có phải
duyên nhau thì thắm lại”.