Tiếng Việt theo dòng
thời gian[i]
Nguyễn Đức Dân
1. Có những
nhà văn, nhà báo Việt Nam đầu tiên đặc biệt coi trọng
vai trò của tiếng Việt. Nguyễn Văn Vĩnh
từng nói “Nước Nam
ta mai sau này, hay dở cũng
ở chữ Quốc ngữ”. Suốt
đời ông mong sao chữ quốc
ngữ có một tương tai rực
rỡ. Phạm
Quỳnh cũng có một câu bất hủ: “Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng
ta còn, nước ta còn.”
Chúng ta đề
cập tới dòng chảy tiếng Việt từ khi dùng
chữ quốc ngữ viết báo. Mở đầu
bằng Gia Định báo (GĐB,1865) ở Nam Bộ
và Đông Dương tạp chí (ĐDTC, 1913) , Nam Phong tạp chí (1917) ở Bắc Bộ.
Tiếng nói
một dân tộc luôn luôn thay đổi ở cả 3
mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, nhanh
chậm, nhiều ít khác nhau tùy lúc tùy nơi. Thay đổi
về ngữ âm rất chậm, hầu như không
thấy. Thay đổi ngữ pháp diễn ra nhanh hơn
nhưng vẫn rất chậm và ít. Nhưng biến
đổi từ vựng thì nhanh hơn và thường
xuyên hơn.
2. Chữ quốc ngữ
Chữ quốc ngữ là một hệ chữ
La Tinh viết theo cách ghi âm. Rất đơn giản và
dễ học. Truyền bá được
chữ quốc ngữ là
người Việt có cơ hội tiếp xúc những nền văn minh Tây
phương rất quan
trọng dùng chữ La Tinh.
Ngay năm đầu tiên của Đông Dương
tạp chí, năm 1913,
Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch đăng bài thơ
ngụ ngôn của Lafontaine "Con
Kiến và con Ve sầu" và nhanh chóng được
đông đảo bạn đọc yêu thích.
GS Hoàng Xuân
Hãn đặt ra danh từ khoa học, nhờ đó tiếng Việt dùng được để dạy
ở trung học và đặc biệt là ở đại
học. Trước đó GĐB gặp nhiều khó khăn khi
diễn đạt các thuật
ngữ khoa học: “Mạch nước nóng, nước ngũ kim”, “nước thán khí” chứ chưa gọi
là nước khoáng, nước có gas. Thực tế cho thấy tiếng Việt có thể
diễn giải chính xác
bất kỳ khái niệm nào.
Mọi ngôn ngữ đều có những hiện
tượng mơ hồ, nhập nhằng. Trong dịch máy hiện nay, làm
mất mơ hồ, vẫn là bài toán khó khăn
nhất.
Chữ viết là quy
ước nên chuẩn mực chính tả cũng là quy
ước. Chính tả do con
người đặt ra.
Như mọi hệ thống chữ viết khác, không
tránh khỏi một số bất hợp lý trong chữ
quốc ngữ. Cho nên, đôi lúc đó đây lại có
những đề nghị “cải tiến” chữ
quốc ngữ và chính tả.
Về chính tả, khi viết tên riêng nước ngoài thì
phiên âm hay giữ nguyên dạng. Khuynh hướng để
nguyên dạng có ngay từ
GĐB, ngày càng
được nhiều người dùng. Từng có người dùng chữ
z thay cho d~ và gi~; f thay cho ph~…Từng có thời, có báo dùng gạch nối ở từ ghép.
Sau thấy tốn giấy, tốn công sắp chữ nên
bỏ. Cũng có báo thử viết liền. Viết liền lại tạo
ra những mơ hồ tiềm năng. Phụ âm cuối
của tiếng này có thể thành phụ âm đầu
của tiếng liền sau. Biết hiểu quỳnhanh là
quỳnh anh hay quỳ
nhanh, còn cưngơi
là cư ngơi hay cưng ơi?
Chữ
quốc ngữ uyển chuyển. Từ nhu cầu thực
tiễn chúng ta đã thêm các ký tự F, J, W, Z vào bộ
chữ cái để viết các từ ngoại lai và không
gặp trở ngại gì. Có điều không cần
những văn bản “pháp quy” đưa 4 ký tự trên vào
bảng chữ cái chữ quốc ngữ.
Không ai lường
trước các khả năng có thể, nên luôn luôn xảy ra những ngoại
lệ chính tả vượt
khỏi cái lô gích thông thường. Chẳng có lô gích
nào giải thích được cách dùng các phụ âm
đầu r~/d~/gi~ khi
viết con dâu nhưng lại viết con rể, trong
khi viết bờ giậu thì
lại viết bờ rào. Vậy chính tả là võ
đoán. Có điều một khi đưa ra những
quy tắc không hợp lý thì người ta sẽ
“vượt rào”. Quy định (QĐ) chính tả cho âm
vị có hai cách viết i/y
rơi vào trường hợp này. Ngày 30.11.1980 Bộ Giáo
Dục ra QĐ: “…trường hợp các âm tiết có nguyên
âm i ở cuối thì viết thống nhất
bằng i , trừ uy…”
QĐ trên không chú ý tới
một quy tắc bất thành văn về tính thẩm mỹ
trong chữ quốc ngữ: hình chữ phải đẹp, trong đó có sự cân đối về
độ cao giữa các con chữ khi viết.
Cân
đối nghĩa là ghép
những phụ âm cùng độ cao với /i/ thì
có khuynh hướng dùng i: Ví dụ: viết vi
phạm, vì vậy, vị trí, si mê, mị
dân … mà không viết vy
phạm, vỳ vậy, vỵ trí, sy mê; mỵ dân.
Cân
đối còn
được hiểu là trong một từ nếu một ký tự có phần nhô cao
lên thì ta viết y nhằm tạo ra sự hài hòa trên dưới. Viết lý thì phần trên và phần dưới chữ này
cân đối với nhau, còn viết lí thì phần dưới chữ này
hơi bị hụt. Trong GĐB và Nông Cổ Mín Đàm (NCMĐ)
đều viết như vậy: chánh lý, có lý lắm,
ký tên, thơ ký, trong kỳ
15 ngày, xem kỹ…
Kích
thước con chữ cũng là một lý do thẩm
mỹ: Chữ i có kích thước ngắn hơn
chữ y, tạo ra ấn tượng là một đối tượng
nhỏ. Vậy nên có
khuynh hướng dùng i ngắn cho những đối
tượng tạo ra ý
niệm nhỏ: li ti, tỉ
mỉ, vi tính, chi li, chi tiết, chơi bi, sân si, lí nhí … Hình
như không ai viết chơi by,
tỷ mỷ; chy ly, chy tiết, vy tính…
Có những thói quen ngôn ngữ không tìm
được lí lẽ của nó. Mĩ là đẹp (mĩ
mãn), nhưng mọi
người quen viết nước
Mỹ, châu Mỹ.
Những biến thể chính tả như vậy
gặp rất nhiều.
3. Tiếng Việt
trên báo chí thời xưa
Báo chí xuất hiện ở Nam
Bộ sớm hơn ở Bắc Bộ. Có những
ngộ nhận về ngôn ngữ báo chí Nam Bộ.
Vũ Ngọc Phan,
đã bình luận về NCMĐ
và Đại Việt Tân Báo như sau: “là những báo chí
không có tính cách văn học, chỉ đăng rặt
những tin vặt, những thông cáo của chính phủ
, những bài diễn văn của người
đương thời…” (Nhà
văn hiện đại, quyển nhất, nxb Vĩnh
Thịnh, Hà Nội, 1951). Những tài liệu nghiên
cứu văn học sử
và báo chí sau đó đã
theo ý kiến này mà cho
rằng Đông Dương
tạp chí , Nam phong tạp chí
mới là hai tờ báo đầu tiên góp
phần xây dựng nền
văn học hiện đại. Nói vậy là bỏ qua những đóng góp của báo
chí Nam Bộ trong việc hình thành một thứ phong cách
ngôn ngữ văn xuôi giản dị gần với khẩu
ngữ của những Lê Hoằng Mưu, Trương Duy
Toản, Tân Dân Tử, Nguyễn Trọng Quản, Hồ
Biểu Chánh,…nhất là của Trương Vĩnh Ký.
Huỳnh Văn Tòng cũng viết : “Trước Đông Dương tạp chí có những tờ báo
khác như Gia Định Báo ,
Lục Tỉnh Tân Văn … Nhưng những tờ báo này thực ra chỉ có
tính chất thông tin , văn
chương còn luộm thuộm
và hết sức đơn sơ.” (HVT, 2000,123).
Trong khi ở Bắc Bộ Nguyễn
Văn Vĩnh chủ trương ngôn ngữ báo chí là thứ ngôn ngữ gọt
giũa, văn chương thì Trương Vĩnh Ký, ngay
từ 1869 đã khuyến khích và huấn luyện “các
thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập” làm thông tín viên báo
chí, cung cấp bài vở cho
phần “Tạp vụ” của tờ GĐB dùng một
thứ “tiếng Việt
trơn tru như lời nói”, thứ ngôn ngữ phổ
thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc.
Đối tượng của GĐB là người Nam Bộ và là
những người bình dân
thì ngôn ngữ cũng
phải là phương ngữ Nam Bộ. Có vậy
độc giả Nam Bộ mới tiếp nhận
được. Viết trơn
tru như lời nói theo phương ngữ Nam Bộ thực sự trở thành phong
cách ngôn ngữ của GĐB. Có điều,
phương tiện giao thông chuyên chở báo lúc đó
chỉ là những “xe tờ” ngựa kéo. Mãi năm 1922
mới có xe hơi đi từ
Sài Gòn đến lục tỉnh. Bởi vậy, lúc
mới ra đời, ảnh hưởng của GĐB nói
riêng và báo chí Nam Bộ nói chung chưa vượt ra khỏi
vùng đất Nam Bộ. Điều này cũng giải
thích vì sao vai trò của ĐDTC và NPTC được nhấn mạnh hơn.
Nếu
như Nguyễn Văn Vĩnh là người có biệt tài
về dịch tiểu
thuyết, ông chịu khó tìm
trong kho thành ngữ, tục ngữ của ta những câu diễn
đạt ý tưởng mới của Âu Tây khiến văn dịch của ông
tưởng như những nguyên tác tiếng Việt, thì ngôn
ngữ trong GĐB cũng trơn tru như lời nói rất
gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày kể
cả ở văn dịch. Số báo ngày đầu tháng chạp năm Tân Tỵ cách nay 130 năm,
tức 20.01.1882, có một
chuyện hài hước Tên
Arabe đói, như sau:
“Có
một tên Arabe kia, lạc bậy ở giữa đồng
cát đói khát đà hai ngày rồi, biết mình chẳng kíp
thì chầy không khỏi chết. Lúc đi qua gần một
cái giếng, chợt thấy trên cát một cái bị
nhỏ bằng da, nó vội vã lượm lấy cái bị
ấy, tưởng là bị chà là. Lòng mầng lật
đật mở ra. Mắt vừa ngó thấy đồ
trong ấy thì vùng la khan lên rằng : “Thảm thay! Tinh
những là ngọc mà thôi!”
Ở bài trên, thay vài từ ngữ của phương ngữ Nam
Bộ và sửa những
lỗi chính tả về
dấu hỏi, ngã… chúng
ta sẽ có một bài báo theo
ngôn ngữ toàn dân hiện nay:
“Có một người Arabe lạc ở giữa
đồng cát, đói khát đã
hai ngày rồi, biết mình chẳng chóng thì chầy không (tránh)
khỏi chết. Lúc đi qua gần một cái giếng,
chợt thấy trên cát một cái bị nhỏ bằng
da, người đó vội
vã lượm cái bị
ấy lên, tưởng là
bị chà là. Lòng mừng
lật đật mở ra. Mắt vừa nhìn thấy đồ trong ấy thì vùng kêu lên rằng: “Thảm thay! Toàn là những ngọc mà thôi!”
Văn
dịch từ 130 năm trước của GĐB là
thế đấy, như là ngôn ngữ hiện nay!
Một điều trùng hợp đáng
chú ý là chính chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn về cách
viết báo cũng từng
nhiều lần nhấn mạnh rằng cần “viết
thế nào cho phổ thông, dễ hiểu, ngắn gọn,
dễ đọc.” ( Hồ Chí Minh về
vấn đề báo chí, tr. 191).
4. Dấu ấn báo chí Nam Bộ
Nhiều hiện tượng của
phương ngữ Nam Bộ đã trở thành ngôn ngữ
toàn dân, thậm chí đã đi vào tác phẩm văn học.
Trong truyện Mẹ và con,
nhà văn Hà Nội Ma Văn
Kháng cho một người Hà
Nội sau 1975 nói: ‘Chị mà dận săm-pô, quần loe,
đánh phấn, tô mắt vào nữa thì… hết sảy!’ . “Hãy … rồi gọi điện
thoại lên trung tâm xe buýt mắng
vốn” “Bao nhiêu tiền làm ra đốt vào những xị đế.” (TT, 26/8/08).
Những từ đặc Nam Bộ hết sảy, mắng vốn, xị đế
đã trở thành những
từ toàn dân.
Về từ ngữ, đáng chú ý nhất là GĐB dùng rất ít từ Hán –Việt. Có
vậy giới bình dân Nam Bộ còn chưa thông thạo
chữ quốc ngữ mới dễ đọc, dễ
hiểu.
Về ngữ pháp và phong cách, những câu viết trên báo cứ
như là những lời kể chuyện thật tự
nhiên. Không thấy những câu
bị động. Lúc
đó văn viết (bút
ngữ) trên báo rất gần với lời nói (khẩu ngữ). Sự việc xảy ra thế
nào cứ tuần tự
hiện ra trong ngôn ngữ như thế khiến câu
tiếng Việt nhiều động từ, ít danh từ .
Và ít giới từ hơn
hẳn so với các bản tiếng Pháp tương tự.
Người Nam Bộ trước đây rất sáng tạo khi nhập từ
nước ngoài vào tiếng Việt. Trong
khi người Bắc Bộ
vay mượn chủ yếu theo
cách phiên âm thì người Nam Bộ thời xưa
trong nhiều trường hợp đã nhận thức
bản chất của sự kiện để sáng tạo
ra những từ ngữ mới. Khi chiếc xe
đạp đưa vào Việt Nam, tất cả các
bộ phận đều chưa có từ để gọi, ấy thế là
người miền Bắc phải mượn các từ
tiếng Pháp frein, enveloppe,
chambre à air, garde-boue,… rồi phiên âm ra tiếng Việt: phanh, lốp,
săm, gác-đờ-bu
(mãi sau mới chuyển thành cái
chắn bùn)… Nhưng
người Nam Bộ không
thế, đã dùng những từ có sẵn đặt tên
cho chúng: thắng, vỏ, ruột, vè…
Báo chí Nam Bộ thời nay dẫn
đầu khuynh hướng “Anh hóa” các từ vay
mượn, kể cả nhiều
từ vay mượn đã được phiên âm, như album, solo, show, live show, stop,
dancing…Trước đây chúng ta đã từng phiên âm chúng: “-Anh ngồi
đây, xem quyển an-bom này
mà chờ tôi” (VTP, Số
đỏ); “Vẫn múa, em tham gia hầu hết các
điệu múa và nhiều tiết mục em chọn sôlô hoặc đuy-ô từng đoạn” (NDCN, 04/10/1990),
“Bỗng Maika la lên: -Xì-tốp! Dừng,
mình lại xem trên cây cầu này có chuyện gì mà con
người bu đông như con kiến” (TT Cười, 6/1991) và
“Cái hồ ấy, khi đã thành
đất phẳng,/Tôi sẽ xin dựng một
trường “Cao đẳng đăng-xinh”.
(Tú Mỡ, Giòng nước
ngược)
Thậm chí “Anh hóa”
cả các từ vay mượn đã được
Việt hóa: rất nhiều cửa hàng ghi sale, on sale, sale off chứ
không ghi bán xôn, bán xon (PNNB, vay
mượn từ tiếng Pháp solde).
Có báo dùng “bị shock” chứ không nói “(bị/gây)
sốc” (mượn từ
tiếng Pháp choc).
5. Tiếng Việt đang dài ra
Anh dân quân đánh vần chưa thạo
chữ quốc ngữ
trong Đôi mắt của Nam Cao đã
nói thuộc lòng một bài 3 giai đoạn kháng chiến
phòng ngự, cầm cự, tổng phản công … ‘dài đến
năm trang giấy’. Những người này cứ nói ra
‘là thấy đề nghị,
yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản
động, xã hội chủ
nghĩa, dân chủ với cả tân dân chủ nữa…’ (trích Đôi mắt,
1948). Cách nay gần 65 năm
đã xuất hiện trên cửa miệng người dân bình thường những khái niệm cao xa mấy ai hiểu hết ý
nghĩa này. Thời đó người dân tin theo
Đảng nên đã nói đúng theo đường lối,
theo chỉ thị, nghị quyết. Sáu bảy thập
kỷ là khoảng thời
gian tạo ra hai thế
hệ, đủ dài để hình thành những thói quen ngôn
từ nói năng đúng giáo điều mà không cần
hiểu thấu đáo. Điều này dẫn tới
hệ lụy là xã hội hình
thành thói quen chấp nhận, tư duy thụ
động, không muốn lật lại nghĩa lý
của từ ngữ, câu chữ,
khái niệm và lập luận
khi tiếp nhận
văn bản. Vả
lại, nếu ai đó có suy nghĩ độc lập,
muốn phản biện, muốn bình luận sẽ tạo ra những lời
nghịch nhĩ và trở thành “người
có vấn đề”.
Kết quả là người ta lo nói năng an
toàn, cầm giấy phát
biểu theo những giáo
điều, dần dần hình thành thói quen kết luận mà không chú ý
tới lý lẽ thuyết phục.
Nhiều người nghèo đi về ngôn từ và
tư duy, nhưng vẫn
cần thể hiện mình. Vậy là sinh ra lối nói
sang trọng với nhiều
từ Hán-Việt nhưng lại không hiểu thấu
đáo và những câu hùng hồn dài dòng rỗng
nghĩa, dư thừa. Một
thói quen quan cách nói những câu
nghe rổn rảng nhưng dông dài chữ nghĩa, còn nội dung rỗng tuếch, sẵn sàng lặp
lại những điều đã biết, đã từng nói.
Biến
tướng của lối nói dư thừa là lối nói
“chuẩn” nhưng không có trích dẫn, một tối kỵ
với những người làm
khoa học. Trải qua nhiều cuộc học
tập nghị quyết, rèn luyện lập trường
quan điểm, nâng cao ý thức chính trị nên đã hình
thành thói quen tư duy thụ
động và “nghệ
thuật” nói năng an toàn: quan trọng nhất là phát biểu theo đúng quan điểm, đường
lối mà không cần trích dẫn trực tiếp
xuất xứ, hình thành thói quen phi khoa học là coi nhẹ việc nói có sách mách có chứng.
6. Những bất biến: triết lý trong
tiếng Việt
Tiếng Việt
thể hiện triết lý và cái hồn người
Việt, qua lời nói thường ngày và qua kho tàng tục
ngữ (TN) thành ngữ (ThN). Có những cách nói năng
hiếm thấy ở những thứ tiếng khác và
mới nghe thấy lạ, tưởng như mâu thuẫn,
thiếu lô gích.
Có những dân tộc nào dùng từ nước để chỉ lãnh thổ như người Việt? Nước
Việt Nam gắn với
huyền sử Việt,
số con của bà Âu Cơ nửa lên núi, nửa
xuống biển nên non
nước, đất
nước cũng là nước,
là quốc gia.
Có những dân tộc nào dùng bụng và những bộ
phận của cái
bụng lòng, dạ, gan, ruột,…làm biểu tượng cho
phạm trù tinh thần, biểu
hiện tư duy, tâm lí, tình cảm, ý chí, sức chịu
đựng? Nghĩ bụng, ghi lòng tạc dạ, gan cóc tia, phổi bò, ruột
để ngoài da…
Chúng ta dễ dàng giải thích
được những cách nói tưởng như mâu
thuẫn: Thành ngữ “thượng
cẳng chân, hạ cẳng tay” phản ánh triết lý người Việt lấy hai cực trỏ
tổng thể. Toàn bộ câu chuyện được
gói trong “đầu đuôi
câu chuyện”. Nói “bán anh em xa, mua láng giềng gần” để
nhấn mạnh phạm trù khoảng cách quan trọng
hơn phạm trù họ hàng,
còn “một giọt máu
đào hơn ao nước lã” lại là phạm trù họ
hàng quan trọng hơn phạm trù số lượng.
Chất vấn để bác bỏ thể
hiện cách tư duy độc đáo của người Việt. Có vậy chúng ta
mới giải thích được vì sao “ớt nào chẳng cay?” là “ớt nào
cũng cay”, “tôi nói điều đó bao giờ?” là “tôi
chưa bao giờ nói
điều đó”, “sao không nói điều đó” là “lẽ
ra nên nói điều đó”.
Có hàng loạt ẩn dụ, hoán dụ trong
tiếng Việt cũng không thấy ở nhiều thứ
tiếng khác.
Nhiều cách nói có vẻ mâu thuẫn nhau
chỉ là mâu thuẫn hình thức. Về
bản chất, chúng phản ánh những qui luật
nào đó của tiếng Việt liên quan đến
triết lý người Việt.
*
* *
Thư
gửi Ban biên tập Tia Sáng
Thph HCM, ngày 08.3.2012
Kính gửi Ban biên tập tạp chí Tia sáng
Trước hết, xin cảm ơn Ban
biên tập đã dùng bài của tôi.
Sau đây tôi có vài lời về cách biên
tập lại tiêu đề bài viết của tôi. Bài tôi
gửi có tiêu đề “Tiếng Việt theo dòng thời gian”.
Tít này được Tia Sáng
sửa lại là: "Nhìn
lại một chặng đường phát triển
chữ Quốc ngữ".
Sửa như vậy mắc hai lỗi cơ bản:
1)
Bài tôi viết
về tiếng Việt chứ không phải
về chữ quốc ngữ.
Không thể lẫn lộn hai khái niệm khác nhau này.
2)
Tít mà báo
đặt, lặp theo khuôn sáo đã mòn nghĩa của
một báo cáo tổng
kết biểu dương
thành tích: Nhìn
lại (một) chặng đường [X năm] phát
triển [của phong trào /của ngành
/của xí nghiệp …Y]. Bài tôi viết mang đặc
điểm của một tùy bút ngôn ngữ học với
3 điểm nhấn về thời gian: a) 130 năm
trước, Trương Vĩnh Ký đã có công xây dựng
một thứ ngôn ngữ báo chí rất đơn giản.
b) Thời gian sẽ đào thải những quyết định
trái quy luật (về quy luật chính tả i/y ). c) Dùng luôn ví dụ từ Đôi mắt của Nam Cao như là một ẩn
dụ: Thời gian đã làm nhiều người Việt
tư duy, nói năng theo đúng giáo điều (để
tồn tại?) nhưng lại dông dài, vô nghĩa và
nhất là mất cái nhìn phản
biện. Chính vì vậy tôi mới đặt tít: Tiếng Việt theo dòng thời gian
Tôi có đôi lời như vậy và mong
Ban biên tập quý báo rút kinh nghiệm.
GS TS Nguyễn Đức Dân
[i] ) Bài này đã đăng trên tạp chí Tia Sáng, ngày 05.3. 2012, với tít được sửa lại là: Nhìn lại một chặng đường phát triển chữ Quốc ngữ. Tôi thấy cần có đôi lời về tít này, nên ngày 08.3 đã viết một thư tới Tòa soạn Tia Sáng. Thư kèm vào cuối bài này. NĐD