DẤU VẾT
CHIẾN TRANH trong tiếng Việt[1]
GS TS Nguyễn Đức Dân
Thích chơi kiểu “đánh”,
“đá” (1. Những ẩn dụ chiến tranh)
Nhà báo viết “Thế trận của Chelsea
rất chặt chẽ, hàng phòng
ngự luôn vô hiệu hóa được các mũi
nhọn tấn công của đối phương. Các
pháo thủ Arsenal tổ
chức tấn công, ra
sức bắn phá khung thành Chelsea, nhưng người chiến thắng
lại là đội quân của
ông Ancelotti…” Đó là cách viết theo một ẩn dụ
đời thường “trận
đấu bóng đá là chiến tranh.”
Khái quát hơn, có
ẩn dụ thi đấu
thể thao là chiến tranh. Chính
vì vậy, chúng ta mới dùng từ trận cho những cuộc đấu thể
thao: trận bóng đá, trận bóng bàn, trận bóng chuyền, trận vật, trận cầu lông, …
Cờ tướng không là ngoại lệ. Trong bài thơ Học đánh cờ của chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng có những câu thơ phản ánh ẩn
dụ cuộc cờ là
chiến tranh:
“Tấn công, phòng thủ không sơ hở
Kiên quyết không
ngừng thế tiến công”
Rất nhiều
ngôn ngữ có những ẩn dụ như “ lập
luận là chiến tranh”; “tình yêu là chiến tranh”[2], “thương
trường là chiến trường”…Đó là những
ẩn dụ đời
thường theo quan niệm trong ngôn ngữ học tri
nhận. Vì vậy, ngôn
ngữ nào cũng có những
từ ngữ quân sự dùng
trong đời
thường liên quan
đến những ẩn dụ chiến tranh. Nhưng
tiếng Việt đặc biệt nhiều từ ngữ chiến tranh.
2. Từ
ngữ phản ánh hiện thực
xã hội
Bức tranh xã hội hiện ra qua ngôn từ. Từ ngữ
phản ánh xã hội và dấu vết xã hội đọng lại trong từ
ngữ.
Một khi xã
hội đầy rẫy
hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, giá trị con người bị
đảo lộn thì xã hội
cũng đầy rẫy những từ ngữ liên quan
đến phạm trù bất
công, bất minh, bất chính và
tội ác. Chỉ cần thực hiện thống kê định lượng trên báo chí về số
lượng những từ
ngữ thuộc phạm trù “tiêu cực, tội ác” và số
lần dùng những
từ này là chúng ta có một
bức tranh định tính về xã hội hiện nay.
Có những từ
ngữ lâu đời, đã một thời ít dùng, có
những kiểu quan hệ xã hội tưởng như đã lùi vào dĩ vãng, nay xuất hiện trở
lại và bùng nổ khiến lớp từ này có số lượng từ ngữ
mới và số lượt từ ngữ dùng nhiều
tới mức đáng kinh ngạc. Bạn có thể
kiểm nghiệm qua ba từ cò,
tặc và chạy.
Nếu như trước đây trong tiếng Việt
chỉ có đạo tặc,
gian tặc, nghịch tặc, phản tặc thì nay có
thêm hải tặc, lâm tặc, đinh tặc; cáp tặc, đất
tặc, nghêu tặc, tin
tặc; vàng tặc (= những người khai thác vàng
trái phép)…Khi những hiện tượng xã hội đặc biệt xuất
hiện thì lại xuất hiện
những từ ngữ đặc biệt. Liên quan
đến câu chuyện giao thông, từ đinh tặc kể ra đã là mới thì nay trong dân gian lại
xuất hiện Đinh
tặc!
Trước
đây có từ cài bẫy, gài
bẫy. Nay xuất hiện một từ mới là gài
độ. Vụ bí thư tỉnh ủy
Cà mau nộp 100 triệu đồng tiền “chạy
chức” có báo viết “Việc này dễ khiến dư
luận hoài nghi, phải chăng người đưa
tiền có ghi âm gài độ
gì thì ông bí thư mới mang nộp tiền cho cơ quan?”
(TT, 28.4.08). Lối nói “tư
duy nhiệm kỳ”, “lợi
ích nhóm” hiện nay trong xã
hội cũng phản ánh
những kiểu tiêu cực
đang nổi lên trong giới quan chức.
Chiến
tranh cả trong chuyện chăn gối[3]
(3. Tiếng Việt đặc
biệt nhiều từ ngữ
chiến tranh)
Từ khi dựng
nước, dân tộc Việt
phải liên miên đối phó với giặc ngoại xâm phương Bắc và giặc giã quấy nhiễu
ở phương Nam. Kết quả là những từ
ngữ quân sự từ xa xưa đã đi vào lời
nói đời
thường, lúc nhiều lúc ít.
Trận, đánh và quân là
những từ chiến tranh
điển hình trong tiếng Việt.
Những sự
kiện xảy ra kéo dài và gây hại liền
được gọi là “trận”: trận bão, trận lụt,
trận cuồng phong,
trận gió, trận ốm, trận ho, trận đòn,
trận roi, trận mưa…Thậm chí “Thúc Sinh quen thói
bốc trời (/rời[4])/
Trăm nghìn đổ một trận
cười như không”
(Kiều)
Nhiều từ
kết hợp với “đánh”,
một thời từng xuất hiện
rất nhiều và được ghi lại trong từ
điển, nhưng sau đó lại lặng lẽ qua
đi.
Trong mục từ
đánh
ở Từ điển
tiếng Việt (1992)
của Viện Ngôn Ngữ có tới 28 cụm từ đánh là những thuật
ngữ chiến tranh: đánh điểm diệt
viện, đánh giao thông, đánh giáp lá cà, đánh thọc
sâu, đánh trận địa, đánh vu hồi,…Những từ ngữ này không còn xuất hiện trong
nhiều từ điển
tiếng Việt hiện nay nữa[5].
Dấu vết
chiến tranh hiện hữu trên khắp đất
nước. Từ lô cốt từng đi vào thơ ca:
“Chiều xuân
nắng mịn lá khoai lang,/ Hoa bí bò leo nở cánh vàng./ Lô cốt bên đường
rêu phủ khắp, /Bầy em thi chạy tiếng
cười vang.” (Huy Cận,
Chiều xuân bên đường).
Nay lại thấy ‘lô cốt” giao thông.
Người bảo thủ , khó từ bỏ nếp
suy nghĩ cũ liền
được phong danh ông “lô cốt”.
So sánh với tiếng Anh, tiếng Pháp hay
tiếng Nga, từ đánh của
tiếng Việt là một đặc thù. Trong các từ
điển tiếng Việt,
có khoảng 130 cụm từ “đánh + X”. Đành rằng có ẩn dụ thi đấu thể thao là
chiến tranh, nhưng thể thao trước hết là trò chơi. Môn thể thao nào
cũng được người Việt, người
Anh, người Pháp hay người Nga gọi là CHƠI (to play;
jouer; igrat’): chơi
bài, chơi bóng bàn, chơi
cờ, chơi quần vợt…Ấy thế nhưng
với người Việt, thể thao còn là đánh và đá. Chơi
gọi là đánh (nếu dùng tay) và đá (nếu dùng
chân). Nếu dịch đánh
bạc, đánh bi, đánh bốc, đánh đáo, đánh
khăng, đánh vật… sang những thứ tiếng
khác, vẫn chỉ dùng từ chơi.
Dấu vết
chiến tranh cũng đọng lại trong từ quân.
Những cách dùng
sau cũng không thấy ở nhiều tiếng khác: Một
tập hợp người cùng
hành động, cùng một thuộc tính liền được gọi là
“quân”. Những người không có việc làm sẽ sung vào đội quân thất nghiệp.
Chúng ta gặp khái niệm “quân xanh” trong đấu
thầu dự án, trong
việc tìm vận động viên cầu lông, cờ
vua có trình độ luyện
tập với Nguyễn Tiến Minh, Lê Quang Liêm…
Quản lý người dưới
quyền
thì gọi là
quản quân: “Tuy nhiên với lực
lượng hùng hậu, phong độ ổn định
của các cầu thủ và tài quản quân của
huấn luyện viên, B.B.D, đã thắng chính họ.” (NLĐ, 01.8.2007). Số
lượng các thành viên của một đơn vị hành
chính, văn hóa nghệ thuật cũng được gọi là “quân số”. Đi làm
nhiệm vụ được gọi là xuất kích, ra quân. “Hà Nội ra quân chống ùn tắc giao
thông”; “Hà Nội ra quân
kiểm tra hoạt động taxi” (VTV1, 10.4.2012). Thực hiện những
nhiệm vụ khó khăn được gọi là đột phá, xung kích. Một
chương trình hành động có nhiều người
tham gia, dù không hề đánh nhau, vẫn được
gọi là “chiến dịch”: chiến dịch mùa hè xanh; chiến dịch thanh niên tình
nguyện. “Chính quyền, các cơ quan chủ quản đã
cử người đóng chốt, trực chiến tại những điểm
nhiều nguy cơ lũ tràn
về” (VTV1, 18.10.2011)
Người
Việt dùng nhiều từ ngữ chiến tranh để
tạo ẩn dụ và tiếng lóng. Vũ khí, súng, đạn, buông súng, cướp cò… là những
từ ngữ bác sĩ thường dùng trên báo chí
để giải thích
những điều liên quan tới quan hệ chăn
gối. Họ hàng xa được gọi là có quan hệ “đại
bác tầm xa”.
Cuối cùng, có
thứ tiếng nào gọi nạn đói, nạn dốt
là giặc
đói, giặc dốt như
tiếng Việt?
[1] ) Bài đã đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị, số
52, 16.5.2012 và được biên tập lại. Để bạn đọc
đồng thời
đọc được bản trên báo và bản
gốc của tôi, tôi dùng cách sau.
-
Những
từ ngữ bị cắt bỏ , tôi dùng một gạch
xóa đi.
-
Những
từ trong bản gốc
sẽ đứng trong ngoặc đơn sau những
từ đã thay thế.
[2] ) Hai ẩn dụ này khá xa lạ
với nhiều người, kể cả những
người giảng dạy và nghiên cứu văn học,
tôi nêu ra nhằm gây những phản ứng ngược
ở bạn đọc, nhân
đó sẽ giới thiệu thế nào là ẩn dụ
dưới góc nhìn của ngôn
ngữ học tri nhận.
[3] ) Biên tập báo đặt
tiểu đề này.
[4] ) Tôi dùng “quen thói bốc rời”
theo nghĩa đen: bốc những miếng bạc rời
mà không cần đếm. Trong Từ
điển truyện Kiều, Đào Duy Anh cũng dùng
“bốc rời”.
[5] ) Có một lúc xã hội dùng
nhiều thuật ngữ quân sự. Tôi muốn gợi ý cho
sinh viên ngữ văn: Chỉ cần đối chiếu
từ điển tiếng Việt qua các thời kỳ là
thấy được những thay đổi trong xã
hội.