Có chân trong ban chấp hành
GS TS
NGUYỄN ĐỨC DÂN
1.
Tiếng
Việt cũng như mọi ngôn ngữ khác, theo dòng
thời gian luôn luôn có những từ ngữ mới
xuất hiện. Trở lại thời tiền sử khi vượn-người đang trở thành người,
thì tiếng nói bộ lạc
nào chắc cũng chỉ chừng
dăm bảy chục từ liên quan đến cuộc sống bầy đàn cần thiết cho những
truyền tin hàng ngày như ăn
uống, đi lại, săn bắt, con mồi, kẻ thù,
sống chết, cây cối, trời đất, nắng
mưa…và một vài từ trỏ bộ phận cơ
thể con người đầu,
mặt, tay, chân…Xã hội
phát triển và nhu
cầu giao tiếp ngày càng tăng thì những khái niệm, những thông tin mới ngày càng nhiều,
thế là con người phải đặt ra những từ ngữ mới. Nhưng đặt từ ngữ mới thế nào
khi ngoài chính mình con
người hầu như chưa hiểu biết gì về
thiên nhiên? Thế là con
người lấy mình để nhận thức thiên nhiên
và đặt tên cho những đối tượng xung
quanh. Từ đây có giả thuyết con người là
trung tâm vũ trụ (anthropocentrism). Có thể hình dung quá
trình đặt ra từ mới như sau: thấy những
đối tượng nào
về hình thức hoặc tính chất giống
những bộ phận cơ thể con người
thì cho chúng cùng tên với bộ phận con người. Con
người nhìn bằng mắt thì cái bộ phận mà con
thú dùng để nhìn cũng được gọi là “mắt”. Đó là cách lấy con
người làm trung tâm
để gọi tên các con vật, các sự vật,
hiện tượng… Mỗi
dân tộc nhìn chính mình và nhìn thế
giới theo những cách khác
nhau. Chẳng hạn, người
Việt thấy con người có tứ chi (hai tay, hai chân). Và tay là một bộ phận khái
quát mà những bộ phận nhỏ của nó có tên gọi chung là tay: cánh tay, bàn tay, ngón
tay mà người Anh
gọi bằng những từ hoàn toàn khác nhau: arm, hand, finger. “Cánh tay” là “arm”
nhưng với người Việt từ “cánh” gợi
trong nhận thức là cái gì đó từ trung tâm vươn xa ra, thế là hình thành
mấy chục từ ghép mà tiếng đầu tiên là cánh: cánh buồm, cánh chim, cánh bèo, cánh
cửa, cánh cung, cánh hoa, cánh quạt, cánh quân, cánh sen…Trong
khi đó, người Anh lại dùng “arm” để tạo
ra những cụm từ mà người Việt gọi là cành cây, nhánh sông, nhánh biển, tay ghế… Sự khác nhau trong nhận thức về phân
cắt thế giới khách quan, về những đặc
điểm các bộ phận con người cùng sự khác
biệt loại hình giữa các ngôn ngữ dẫn tới
quá trình phát triển nghĩa của những từ ngữ trỏ bộ
phận con người cũng khác nhau. Lấy từ chân làm ví dụ.
2. Trong con người,
chân là bộ phận thấp
nhất giúp ta đứng vững. Thế là bộ phận
thấp nhất làm giá
đỡ cho những đối tượng tự
nhiên hoặc nhân tạo
được nhiều dân tộc gọi tên là “chân”:
chân tường, chân
cột, chân giường, chân bàn, chân đèn, chân cầu
thang; chân đồi, chân núi, chân chống (xe đạp),
chân kính (đồng hồ),
chân vạc, … Có những cái
chân có hình dáng riêng: sập chân
quỳ; lư hương
chân quỳ; quần
cắt kiểu chân què của phụ nữ
nông thôn Bắc Bộ xưa…
Nhưng với chân trời, hoặc “chân
mây mặt đất một màu xanh xanh”(Nguyễn Du), thì
người Pháp, người
Anh và người Nga lại dùng một từ gốc Latinh horizon,
chẳng dính líu gì tới “chân” cả.
Trong
khi chúng ta nói chân răng, chân
tóc, chân móng tay, thì
người Pháp lại thấy ở những đối
tượng trên có đặc điểm cắm sâu vào
như rễ cây để
đứng vững nên họ có lối nói rễ răng, rễ tóc, rễ móng tay.
Chân vịt, chân rết là
cách lấy chân người gọi tên chân con vật. Từ
đây lại dùng tên này để gọi những
đối tượng nào có hình dáng hoặc công dụng
giống như thế: chân
vịt của con tàu, hệ thống mương máng chân
rết, công ty mở thêm nhiều chân rết ở các địa phương…
3. Chân
để con người đứng ở một vị trí. Vậy thì “có
chỗ đứng trong thị trường” là “có chân trong thị trường”. Cái vị trí này là vị
thế con người trong một tổ chức xã
hội . Ấy thế là chân được dùng hoán
dụ cho thành viên của
một tổ chức: “chạy được một chân trong ban chấp hành”, “có chân
trong hội đồng quản trị”; “có chân trong đội tuyển
quốc gia”; “xin được
một chân bán hàng
ở Trung tâm thương mại”; “còn thiếu một chân tổ tôm”… Tiếng Anh, tiếng
Pháp và tiếng Nga không có kiểu chuyển nghĩa theo
cách dùng hoán dụ từ chân. Người ta dùng trực tiếp từ “thành
viên” (member, membre, член).
Kết hợp nghĩa “thành viên” với nghĩa
“ở vị trí thấp nhất” ,
người Việt nhận thức ở từ chân
một nghĩa mới. Nó trỏ người ở
những nghề nghiệp có vị trí thấp trong một
tổ chức , những người phụ việc,
phục vụ cho cán bộ
lãnh đạo: “Anh ta là
một chân chạy trong công ty”,
“Chưa tìm được việc làm , thôi thì trước
mắt kiếm một chân sai
vặt, chân chạy cờ, chân loong toong hay một chân
bảo vệ nào đó cũng được”… Tục
ngữ “giàu
hai con mắt, khó hai bàn tay” đã
khái quát tay để cầm
nắm thành tay là công
cụ lao động. Mà chân ở vị trí thấp nhất, nên
từ tay chân, chân tay chỉ loại công cụ lao
động thấp nhất – bọn đàn em, bộ
hạ, thuộc hạ cho những đại ca, những ông trùm và những
người quyền thế.
4. Dùng tay,
chân để trỏ người là một
điểm đặc biệt của tiếng Việt. Hầu như không
thấy trong tiếng Anh,
tiếng Pháp và tiếng Nga.
Trong khi chúng ta nói tay
chơi, tay ngang, tay sai, tay
súng, tay thợ, tay trong… thì để chỉ
mỗi loại người này
tiếng Anh lại dùng một từ trong đó không có
yếu tố “tay”: playboy;
layman; lackey…
Tay, chân được dùng trỏ các vận động viên
thể thao . Dùng tay trỏ vận động viên
chơi môn thể thao bằng tay. ‘Võ sĩ thép’ Mike Tyson
chỉ được xếp vị trí cuối cùng trong
danh sách 10 tay đấm huyền thoại của quyền
Anh’; “Minh Quân vô địch giải các tay vợt xuất
sắc”, “Việt Nam góp
mặt hai tay cơ tại
vòng tứ kết giải Billards 9 bóng châu Á”; “Tay đua 24 tuổi
người Ý Marco
Mimoncelli tử nạn ngày
13.01.2011”; “27.12 tới, vào
đúng mùa cưới, chân sút
vàng của đội tuyển Việt Nam Phạm Thành Lương đã quyết
định “đưa nàng về dinh” …(trích ViệtBáo.com), “danh
hiệu kỳ đạo của các tay cờ Việt Nam”(trang www.thanglongkydao). Các bạn còn
gặp “tay đập”, “tay chắn” trong bóng
chuyền. Và “tay kiếm cừ khôi” là tên một trò chơi game.
Điều thú vị trên đây hầu
như cũng không thấy trong tiếng Anh, tiếng Pháp và
tiếng Nga.
Nội dung trang WEB liên hệ GS TS Nguyễn Đức Dân , Điện thoại 0919420274
Kỹ thuật -trình bày liên hệ 0989091203 , email truongsonh7@yahoo.com