Sơ lược
về lý thuyết vết Chomsky[1]
GS TS Nguyễn Đức Dân
(nguyên giáo viên chuyên toán, dạy đội tuyển toán thành phố Hà Nội thi học sinh giỏi toàn miền Bắc 1962 – 1966)
1.
Lịch
sử khái niệm
Năm
1973 Chomsky đưa ra ý tưởng sự chuyển
chỗ của một NP (danh ngữ) trong phép biến
đổi đã để lại một vết (trace) trong ngôn ngữ. Ý tưởng này
được ông trình bày cụ thể lần đầu
tiên trong “Những bài giảng ở Whidden” tại
Đại học McMaster mùa xuân 1975 và được in trong [18]. Khi bàn về sự khác biệt giữa phép
biến đổi gốc và không-gốc (root and nonroot
transformations) ở câu phức được hình thành theo
phép chêm câu liên quan đến sự chuyển chỗ
của của loại từ “wh
– words” (như who, where…), ông đặt vấn đề: Vì sao trong câu
hỏi gián tiếp có thể nói như: “I wonder who John is visiting” (Tôi tự
hỏi John đang thăm ai) mà không thể nói “*I wonder who is John visiting”? Ông lý giải như sau: Câu tường thuật kiểu “John
is visiting Mary” có cấu trúc ngầm ẩn đại
loại là “John is visiting wh -
someone” . Từ cấu trúc ngầm ẩn này, bằng phép chuyển chỗ wh - someone lên đầu câu và phép đảo trật tự “John is ® is John”, sẽ
được câu hỏi “who is John visiting?”. Phép
“chuyển chỗ wh – someone”
là phép biến đổi
gốc, nó áp dụng được ở mọi cấp
độ chêm, còn phép đảo trật tự “John is ® is John” để tạo câu
hỏi là phép biến đổi không gốc nên bị
chặn lại trong câu chêm. Từ đây nảy sinh khái
niệm vết (trace). Ý tưởng về vết được
ông phát triển trong công trình On Wh – movement công bố năm 1976 (trong Irvine Conference on the Formal Syntax of Natural language, June 9
– 11, 1976) và được in
lại trong Culicover [31] như
sau: “Tất cả các phép
biến đổi chuyển chỗ đều
để lại một
vết t (một copy rỗng về mặt ngữ âm).
Vết đó được coi như là một biến
liên kết (/ràng buộc) với
yếu tố phạm trù đã được
chuyển chỗ theo quy tắc của phép biến
đổi và vết có những thuộc tính tương
ứng.”
Chúng ta
giải thích khái niệm vết qua
ví dụ về vết trong câu bị động và câu
hỏi. Quan sát câu chủ
động (1) và câu bị động (2):
(1)
John kissed Mary.
(2) Mary was kissed by John.
Từ câu chủ
động (1), qua một số phép biến đổi
mới chuyển thành câu bị động (2) được. Theo luật
của câu bị động, tác nhân đặt xuống cuối
(Agent post – posing). Khi chuyển xuống cuối như
vậy, từ “John” đã để lại một vết
ở chỗ nó vốn là chủ ngữ, tức là
Áp dụng quy
tắc biến đổi bắt buộc [ PAST BE kiss ® was kissed] mà (5) thành (2).
Khi yếu tố X
chuyển chỗ nó để lại một vết t thì t là
một biến có liên kết với X. [ Trong (4) đó
là t và John, trong (5) đó là Mary
và t ]. Nghĩa là vết có
tất cả những tính chất của các từ mà nó
đã liên kết. Nói cách khác:
Quan hệ giữa giữa
một vết với
phạm trù liên hệ với nó
sẽ đúng như quan hệ giữa một yếu
tố với yếu tố
được thay thế.
So sánh câu hỏi
(6) và cấu trúc chìm (deep structure) của nó là câu (7):
(6) What are you seeing at the
cinema ?
(7) You are seeing what at the
cinema ?
Chúng ta thấy để chuyển
từ (7) thành cấu trúc
nổi (surface structure) (6)
đã có sự chuyển chỗ của hai yếu tố what và are. Điều
này được minh họa như (6’):
Chuyển chỗ you are thành are you
theo quy tắc bắt buộc đảo chủ ngữ
tạo câu hỏi, còn chuyển chỗ của what đã để lại
một vết t , nó chỉ ra cái gốc ban
đầu what trong cấu trúc nổi. Vết t
đã chỉ rõ mối liên hệ bản chất
giữa cấu trúc chìm và cấu trúc nổi.
(6’’)
What are you seeing t at the
cinema?
Tuy nhiên, với
một câu hỏi mơ hồ
nói riêng và một câu mơ hồ nói chung thì những câu này
có hai vết khác nhau ứng với hai cách hiểu. Ví dụ:
(8) Who do you want to play?
Trước câu hỏi (8), người nghe có thể trả
lời bằng câu (9) hoặc câu (10):
(9) I
want to play Bill.
(10) I
want Bill to play.
Tùy theo câu trả
lời mà chúng ta biết người đáp đã hiểu
từ who được
chuyển từ vị trí nào trong cấu trúc chìm, tức là
vết để lại trong câu (8) như thế nào. Trả lời bằng câu (9) thì (8) sẽ có vết
như (8a). Trả lời bằng
câu (10) thì (8) sẽ có vết như (8b):
(8a) Who
do you want to play t
(8b) Who
do you want t to play
Trên đây là
kiểu vết của từ who,
một từ trong lớp từ
wh-word. Lớp từ này
gồm những từ who,
which, what, where, why, when. N.
Chomsky đã nghiên cứu các phép biến đổi liên quan
đến những từ
này, ở đó có những
kiểu vết khác nhau. Xem Chomsky [20]
Có hiện
tượng thú vị về vết: Tiếng Anh, có
hiện tượng chập (spelling) want to thành wanna. Thế
nhưng, vết trong những câu hỏi chứa want to và wanna lại khác
nhau.
So sánh câu (8)
với câu (11):
(11) Who
do you wanna to play?
Câu (11) lại không
thể chấp nhận một vết là (8b). Tức là nếu như có một
vết t ở giữa
(ngăn cách) want và to thì
hai từ này không thể chập lại thành wanna được.
Chomsky viết: “Ở
thành phần dạng
thức ngữ âm (PF), ở nơi quy tắc tỉnh
lược … được áp dụng, nếu xuất
hiện vết của
phép chuyển chỗ - wh xen giữa want và to thì quy
tắc đó bị chặn lại, không áp dụng
được nữa”
Chomsky [26, p.163].
Vậy từ câu tường
thuật (12) chỉ có thể chuyển thành câu hỏi echo-question[2] (13) chứ không thể có câu
hỏi như (14):
(12) Jim wants Peter to win
(13) Jim wants WHO to win?
(14) *Who does Jim wanna win?
Vậy
là cần nghiên cứu
điều kiện cho các vết.
2. Có những
điều kiện cho
phép chuyển chỗ để lại vết
Chúng ta
giải thích
điều này qua ví
dụ dưới đây. Quan
sát câu (15) và hai cấu trúc ngầm ẩn (16), (17):
(15) the only one of Tolstoy’s novels that I like is out of print (chỉ
những tiểu thuyết mà tôi thích của Tolstoj là đã
hết)
(16)
[NP the only one that I like of Tolstoy’s novels] is out
of print
(17)
[NP [NP the only one t ] of Tolstoy’s novels] is
out of print that I like
Từ (16) bằng phép
dời chỗ “that I like” sẽ được (15) nhưng
lại không thể dời chỗ như vậy để
tạo ra (17). Hiện
tượng này liên quan
đến điều kiện không vượt cấp khi
thực hiện phép biến đổi. Trong (17), t chính là vết của
cụm “that I like”.
Điều
kiện không vượt cấp, còn gọi là điều
kiện “liền kề dưới” (condition of
subjacency), nói rằng khi có
những phạm trù có thể thực hiện liên tiếp
(cyclic category)
như A, B, C
được chêm vào nhau thì
không được thực hiện phép chuyển chỗ
vượt cấp từ phạm trù được chêm sâu
nhất qua phạm trù trung gian ra phạm trù ngoài. Nghĩa là
nếu A chêm vào B, rồi B chêm vào C, tức là A là phạm
trù được chêm sâu nhất thì chỉ có thể
chuyển chỗ một
yếu tố X tới một vị trí ở trong B –
phạm trù liền kề bao chứa A – chứ không thể
chuyển chỗ tới một vị trí Y trong phạm trù
C. Điều này được minh họa như trong
sơ đồ (18) dưới đây:
(18) [C …Y…[B
…[A …X…] …] …Y…]
dẫn Chomsky [18, p. 86]
Trở lại
ví dụ (16) và (17). Trong
(16) thì “that I like” có thể chuyển chỗ
xuống cuối NP trực tiếp chứa nó, vai trò của A trong (18), để thành câu (15). Còn trong
(17), ký hiệu t trỏ cái vết
của “that I like”, thì danh ngữ
“the only one t” lại nằm trong danh ngữ NP, vai trò của B trong (18), nên sự chuyển chỗ t
xuống cuối đã vi phạm điều kiện
liền kề.
Một số ví dụ phức tạp hơn
về vết liên quan đến điều kiện
liền kề trong câu chứa động từ tình thái.
Trong luận án tiến sĩ viết năm
1967, P. Rosenbaum [84] chứng
minh rằng câu (19) dưới đây được suy ra
từ cấu trúc ngầm ẩn (19’):
(19) John seems to be a nice fellow; (19V) John
có lẽ thuộc loại người tử tế
(19’) Y seems [John to be a nice fellow]; (19’V) Có lẽ
[John thuộc loại người tử tế]
Điều
này được Chomsky phân
tích lại theo cách nhìn của
lý thuyết vết.
Quy tắc
được đặt ra
là chuyển chỗ “NP lên trước”, NP ở (19’) là
“John”, nó là chủ ngữ trong câu chêm, thoả mãn
điều kiện liền kề nên được chuyển lên vị trí chủ
ngữ trong câu chính được đánh dấu bằng
Y.
Cũng quy tắc đó, từ (20) chuyển
thành (20’), vết t chỉ ra
cái vị trí ở (20) mà từ đó “John” đã chuyển chỗ lên
đầu:
(20) John is certain
[S t to win] ; (20V) John chắc chắn [S t thắng ]
(20’) Y is certain [S John to win] ; (20’V) Y chắc chắn [S
John thắng ]
Vết trong câu chứa cả hai động
từ “seem” và “certain” , như câu (21), sẽ thế nào?
(21) John
seems to be certain to win; (21V) Có
lẽ John chắc chắn thắng
Quan sát hai cấu
trúc ngầm ẩn:
(21’) Y2 seems [s Y1 to be certain [s John to win]]
(21’’) Y2 seems [s John to be certain [s t to
win]]
Trong (21’) chuyển chỗ “John” lên
vị trí đầu tiên Y2 , dường như
chúng ta đã vi phạm quy tắc chuyển chỗ NP-
liền kề đã nêu ở (18). [ So sánh (21) với (18), ta
thấy “John” đóng vai trò của X, còn Y2 đóng vai trò của Y]
Vậy giải quyết thế nào? Câu trả lời khá
đơn giản như sau:
(21) không trực tiếp
suy từ (21’) mà suy từ (21’’). Còn chính (21’’) được suy từ (21’) bằng quy
tắc chuyển NP- lên trước, giống như (20)
đã được suy từ (20’). Vậy là, quy tắc chuyển NP-lên trước
được áp dụng một cách tuần tự,
đầu tiên vào (21’) để được (21’’), sau
đó mới áp dụng vào (21’’) để được
(21). Mỗi lần áp dụng
đều theo đúng quy tắc nguyên lý liền kề
dưới.
Như vậy, các câu (22), (23) dưới đây lần
lượt có cấu trúc ngầm ẩn (22’), (23’).
Ở (22’) t là một
vết của “John”, còn
ở (23’) t là một vết
của “the men”.
(22) John seems to like Bill ; (13V) John có lẽ thích Bill
(22’) John seems [
t to like Bill ]; (13’V) John có
lẽ [ t thích Bill ]
(23) The men seem to
John to like each other (Theo John, những ông này thích nhau)
(23’) The men seem to John [ t to like each other ]
3.
Vai trò của vết trong lý thuyết ngôn
ngữ GB[3]
Đây là lý thuyết cú pháp phổ quát
rất nổi tiếng được N. Chomsky xây dựng
năm 1980 – 1981 (xem [22], [24]). Ở đây ông đã sửa
đổi một cách cơ bản những lý
thuyết được xây dựng trước đó. Sau
này được điều chỉnh một lần
nữa trong The Minimalist Program [29].
GB miêu tả sự hiểu biết về ngôn ngữ
như là một tập hợp những lý thuyết bộ
phận bao gồm những nguyên lý và tham biến (principles and parameters) gắn kết
với nhau. Các
bộ phận và mối quan hệ giữa chúng trong lý thuyết GB được tóm tắt trong sơ đồ trình bày ở mục §4.4
dưới đây. (dẫn
[30, p.33])
Người
ta tìm hiểu vết trong
nguyên lý gắn kết (trace
and binding), nguyên lý chi phối (trace and government). Có những
nguyên lý chi phối các vết. Mọi vết đều
được chi phối đúng.
Qua sơ đồ này có thể thấy vết có quan
hệ với lý thuyết vai nghĩa. Trong câu, NP nhận
những vai nghĩa nhất
định, có những
vết đánh dấu vai nghĩa (case- marked trace), có vết
không vai nghĩa (caseless trace).
Phép dời chỗ “Move - a”
luôn luôn để lại một vết. Nhờ đó nó
chỉ ra mối liên hệ giữa cấu trúc chìm và
cấu trúc nổi. a
có thể là một NP, một
pro (đại từ), hoặc một PRO (đại
từ trỏ phạm trù
rỗng[4]), một Wh- word, một
V. Vì vậy, có những nghiên cứu về
vết của phép dời chỗ NP (trace of NP-Movement),
vết trong bổ ngữ
(trace in COM). Trong GB có lý
thuyết (ràng buộc) cục bộ (Bounding Theory). Nó không cho phép dời chỗ quá xa
những yếu tố có quan hệ với nhau trong một
câu, mà người Việt gọi là “làm đứt mạch
văn”. Đây là lý thuyết
đặt ra những điều kiện cục bộ cho
một số quá trình và các
từ vị có quan hệ với nhau. Ví dụ: Nguyên lý liền
kề dưới (subjacency): Sự dời chỗ không
thể vượt qua hơn một nút (node) ràng buộc.
Vậy là vết và lý thuyết cục bộ (trace and bouding
theory) cũng được
tìm hiểu.
4. Vài ví dụ tiếng Việt
[1]
[1] ) Bài
này đã đăng trên tạp chí Ngôn Ngữ , số 3, 2013, trang 3 – 9
[2]
[2] Câu
hỏi mà người ta đặt từ hỏi
để nhấn mạnh điểm chưa rõ trong
lời của người đối thoại.
[3]
[3]
GB (Government and Binding)- Chi
phối và Gắn kết
[4]
[4]
PRO
subject : Phần
đứng trong ngoặc vuông của những câu
dưới đây vắng chủ ngữ. Chủ
ngữ vắng mặt này
tương đương với một đại
từ được gọi là null
subject, và quy ước
viết tắt là PRO.
“We would like [to say]” so sánh
với “We would like [you to
say]”; “They will expect [to pass the exam]”
so sánh với “They will expect [students to pass the exam]”; “Tôi
muốn [dừng lại]” so
sánh với “Tôi muốn [chúng ta dừng
lại]”