Giới
thiệu lô gích phi h́nh thức[1]
về trang chủ GS. TS.
Nguyễn Đức Dân
1.
Lịch sử và khái niệm
Trong báo cáo này chúng
tôi điểm qua lịch sử h́nh thành, sự phát
triển và hiện trạng của lô gích phi h́nh thức (LPH)[2].
Những đối tượng và phương diện mà
LPH quan tâm rất rộng, khuôn khổ cho báo cáo có hạn nên
chúng tôi chỉ có thể nhấn mạnh cho rơ thêm ở
một vài điểm.
1.1.
Thuật
ngữ. Tên tiếng Anh
của LPH là Informal Logic (tiếng Pháp là la
logique non formelle). Có
những thuật ngữ cùng nội hàm : non-formal logic;
lư lẽ phi h́nh thức
(informal reasoning); lập luận phi h́nh thức (informal
argument).
Định
nghĩa: LPH là một chuyên ngành xây dựng
một lô gích để
đánh giá, lư giải, phân tích
và xây dựng những lập
luận trong diễn ngôn
đời thường cũng như diễn ngôn khoa
học, từ nói năng trao đổi hàng ngày, căi vă, tranh
luận, quảng cáo, những
b́nh luận báo chí, cho đến những diễn từ
chính trị, những báo cáo khoa học… LPH bao gồm cả
những suy luận theo lô gích truyền thống lẫn những suy luận phi h́nh
thức.
Từ 60
năm trước, Ryle
(1953) là người
đầu tiên dùng thuật ngữ LPH. Chương
đầu tiên quyển sách của ông có tựa đề Lô gích h́nh thức và phi h́nh
thức. Theo ông, nếu
như nhà lô gích nghiên cứu và thao tác với các tác tử
như all, if… then, or… th́ nhà
triết học lại thao tác với những yếu
tố có mối quan hệ ngầm ẩn thuộc
LPH. Ở Bắc
Mỹ, thuật ngữ LPH lần đầu tiên xuất
hiện trong hai công tŕnh của Rescher (1964) và của
Carney và Scheer (1964).
Phần I của cả hai
quyển sách trên đều có tựa đề Informal Logic. Rescher đề cập tới
những vấn đề về ngôn ngữ phi h́nh thức
như argumentations and fallacies - lập
luận và ngộ biện (chương
4), ngộ biện phi h́nh
thức (chương 5). C̣n Carney và Scheer “đánh giá những lập
luận lô gích” (chương I), “những ngộ biện phi
h́nh thức truyền thống” (chương 2)…Trong sách này,
hai tác giả đă nh́n thấy những chủ đề
truyền thống của LPH. Cùng với Rescher, Carney và
Scheer cho rằng LPH là thứ lô gích không phải quy nạp cũng chẳng phải
diễn dịch.
1.2.
Nguyên
nhân nảy sinh LPH
Mặc dù từ khá
sớm đă có nhiều công tŕnh mang tên Informal Logic, nhưng LPH bắt nguồn
thực sự từ Bắc
Mỹ trong những năm 70 TK trước. Nó như
một phân nhánh của lô gích truyền thống. Trong
bối cảnh nhà trường gắn liền với xă
hội, với các phong trào chính trị những năm 60
của thế kỷ trước, khi giảng dạy lô
gích, đặc biệt là giảng dạy lô gích ở các
trường đại học Bắc Mỹ, người
ta không thể không phân tích
những ví dụ cụ thể gặp trong lư lẽ hàng ngày đă hướng
lô gích quan tâm tới những lập luận trong
đời thường. Một trong những chất xúc tác
sớm nhất cho LPH là Trào
lưu tư duy phản biện
(Critical Thinking Movement). Nó đ̣i hỏi cần xem xét
lại thật kỹ lưỡng với con mắt phê phán
về mục đích của giáo dục. Trong đó có
điểm then chốt là chương tŕnh cần dạy
cho sinh viên đầu óc và kỹ năng phê phán. Trào lưu này đă thúc đẩy mạnh mẽ LPH, nhất là
khi một nghị định (Executive Order) về giáo
dục của bang California (Mỹ) vào năm 1980
buộc đưa môn tư duy phản biện vào
trường trung học.
Kết quả là dẫn tới
sự thay thế những ví dụ nhân tạo cứng
nhắc về lập luận đúng hay sai trong những
giáo tŕnh lô gích truyền
thống bằng những ví dụ sống động
thấy trong đời thường, trên báo chí, trong tranh
luận, trong quảng cáo, và trong những cuộc vận
động chính trị, những chiến dịch tranh
cử. Giáo tŕnh Lô gích và tu từ học hiện
đại với phụ
đề ‘Dùng lư lẽ trong đời
thường’ của Kahane (1971)
được in lại
rất nhiều lần là một bằng chứng từ
rất sớm ở Bắc Mỹ đă theo khuynh
hướng này.
Về lư thuyết,
những công tŕnh Sử
dụng luận cứ (1958)
của Toulmin, Ngộ biện (1970) của Hamblin's đă nêu ra những vấn
đề trong LPH với
nhiều ví dụ sinh động. Tuy nhiên, thể nghiệm dạy LPH chỉ thực sự bắt
đầu với công tŕnh Logical Self-Defense (1977) của Johnson và Blair ở
trường ĐH Windsor.
Làm điểm tựa
thúc đảy, thảo luận, trao đổi và phát
triển LPH là sự ra đời của những tạp
chí chuyên ngành và những hội thảo về LPH và lư thuyết
lập luận. Đáng chú ư nhất là The Informal Logic Newsletter
(từ 1983), nay là Informal
Logic được Johnson và
Blair sáng lập và Argumentation
(từ 1986). Ngoài ra,
những tạp chí đăng nhiều bài về LPH là Triết học và tu từ
học (Philosophy and Rhetoric), Lập luận và tranh tụng (Argumentation and Advocacy), Vấn đề: Tư duy
phản biện (Inquiry:
Critical Thinking), Những
lĩnh vực giao thoa (Across the Disciplines, ra
đời 1988), Synthese, Logique et Analyse , American Philosophical Quarterly, Argument and Computation… Có
những số chuyên đề đặc biệt về
LPH của tạp chí ProtoSociology (1999),
và Studies in Logic, Grammar, and Rhetoric (2009)…
Đáng chú ư là 9 cuộc
hội thảo hai năm một lần tại Đại học Windsor và 6 cuộc hội thảo liên
ngành 4 năm một lần, kể từ 1986, tại Amsterdam do Hội nghiên cứu lập luận quốc tế (International
Society for the Study of Argumentation (ISSA)) tổ chức. Và
những hội thảo tương tự tại Tokyo , Ba
Lan, Scotland …
Trả lời câu hỏi dạy cho sinh viên cách
lư lẽ tốt như thế
nào là hàng trăm, thậm chí hàng ngh́n giáo tŕnh,
tập bài giảng về dạy LPH ở Canada, ở
Mỹ và ở nhiều quốc gia khác. Trong đó có
những công tŕnh vừa mang tính lư luận vừa là
đổi mới sư phạm. Chẳng hạn, Woods, Irvine & Walton (2004); Govier
(2006); Groarke & Tindale (2012); Browne & Keeley (2010); Fisher
(2004); Seay & Nuccetelli (2012);
and Hughes, Lavery & Doran (2010)…
1.3.
Những khuynh hướng
Trên tổng thể, có ba hướng chính
về LPH phát triển độc
lập với nhau: từ
những năm 50 ở Anh, từ những năm 60 ở
Châu Âu (Pháp, Hà Lan…) và ở các
nước Bắc Mỹ.
1.3.1.
LPH ở Anh
Trước
hết đó là công tŕnh của Strawson (1952). Ở đây,
tác giả đă vạch ra sự đối lập
giữa hai loại lô gích: lô gích h́nh thức đối
lập với cái được gọi là “lô gích của
ngôn ngữ” (230 – 232),
thứ ngôn ngữ hàng ngày không phải là thứ lô gích chính
xác, có điều ông không bao
giờ dùng thuật ngữ informal logic. Kế đến là
công tŕnh của Ryle (1953).
Công tŕnh gây tiếng
vang và có ảnh hưởng lớn nhất là của
Grice (1975). Tác giả đă đối lập hai cách
tiếp cận h́nh thức và không h́nh thức về ngôn
ngữ. Theo tác giả, “những quy
tắc dùng tới các phương tiện h́nh thức
có thể không giúp ǵ cho ngôn ngữ tự nhiên”[3].
Phương tiện phi h́nh thức có thể
được dùng như một công cụ bổ trợ
hữu hiệu cho các phương tiện h́nh thức. Ở đây Grice đă nêu lên nguyên
lư cộng tác và 4 phương châm hội thoại
để xây dựng một phương pháp suy luận
tổng quát t́m ra hàm ư của
những câu thoại trong ngôn ngữ tự nhiên. Mặc dù Grice chưa bao giờ
dùng thuật ngữ “informal logic” nhưng trên thực tế
(de facto) tác giả đă
đối lập lô gích h́nh thức với LPH, thứ lô
gích của ngôn ngữ tự nhiên.
1.3.2. LPH ở Châu Âu
Ở Pháp và
Bỉ, đó là những công tŕnh của Perelman và Olbrechts-Tyteca (1958), Ducrot (1973, 1983, 1984), Anscombre (1983), Plantin (1990),
Grize (1982,1990), … Ducrot xây dựng một “lô gích của
hoạt động ngôn ngữ” (1973). Hai tác giả Pháp
Anscombre và Ducrot (1983) đă đưa ra một kiến
giải mới, cơ bản và độc đáo về lư
thuyết lập luận trong hoạt động ngôn
ngữ, lập luận theo những thang độ và gặt hái được
những kết quả thú vị.
Ở Hà Lan, Van Eemeren and
Grootendorst (1992) nêu cách tiếp cận biện chứng –
ngữ dụng (the pragma-dialectic theory) về lập
luận. Cách tiếp cận này đôi khi c̣n mang tên trường phái Amsterdam (the Amsterdam School). Nó nh́n
nhận lập luận như
một phương thức giải quyết những
khác biệt về quan điểm dựa trên những
quy tắc riêng về thảo
luận phê b́nh (critical discussion).
1.3.3. LPH ở Bắc Mỹ
Có hai giai đoạn
phát triển LPH ở Bắc Mỹ. Thứ nhất từ
năm 1964 và thứ hai từ thập kỷ 80 thế
kỷ trước. Giai đoạn đầu là những
công tŕnh của Rescher (1964), Carney và
Scheer (1964).
Phải đến
năm 1976 mới xuất
hiện quyển sách đầu tiên có tựa đề LPH.
Đó là The Way of Words: An Informal Logic của Munson. Ông coi LPH có nhiệm
vụ t́m hiểu những nguyên lư để đánh giá
những lập luận hàng ngày. Từ đây trở đi
xuất hiện liên tiếp những công tŕnh và giáo tŕnh
về LPH. Chẳng hạn, Understanding
Arguments: An Introduction to Informal Logic (1978) của Fogelin. Tác giả này gắn LPH
với ngữ dụng học.
Giai đoạn hai
của LPH ở Bắc Mỹ được bắt
đầu từ 1984 với Informal Logic and the Theory of Reasoning
của Finocchiaro. LPH
được hiểu là lư thuyết về lư lẽ. Lần lượt theo
thời gian là Informal Logic (1986)
của Copi, Epistemology and Cognition (1986) của Goldman, Problems in Argument
Analysis and Evaluation (1987) của Govier, Informal Logic: A
Handbook for Critical Argumentation (1989) của Walton, “Formal Logic
and Informal Logic” (1989) của Perelman, “What is Reasoning? What is an
Argument?” (1990) của Walton.
Walton là một
trong những người đầu tiên gắn LPH với
ngữ dụng học. Ông coi LPH như là những chuỗi
hỏi-đáp trong một
cuộc thoại. Lô gích h́nh thức và LPH không phải là hai
lô gích đối nghịch nhau mà là bổ sung cho nhau.
1.3.4. Ở
Việt Nam, khi nghiên cứu về ngữ dụng học,
Đỗ Hữu Châu (1993, 2001) và Nguyễn Đức Dân
(1998) cũng đă tŕnh bày lư thuyết lập luận. Sách Nhập môn lô gích h́nh thức và
lô gích phi h́nh thức (2004) là giáo tŕnh mà Nguyễn Đức Dân đă
giảng tại Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Đối
tượng nghiên cứu của LPH
2.1.
Có nhiều quan niệm về đối
tượng nghiên cứu của LPH. Chúng ta nêu ra đây những quan niệm chính về
LPH. Đó là:
ü
Lô gích của ngôn
ngữ tự nhiên đối lập với những
phương thức h́nh thức (Grice, 1975)
ü
Lô gích không phải
quy nạp cũng chẳng
phải diễn dịch (Rescher, 1964; Carney và
Scheer, 1964).
ü Lô gích
của những lập luận và những ngộ biện
phi h́nh thức (Johnson và Blair, 1980)
ü lư
thuyết về lư lẽ
(Finocchiaro, 1984)
ü Nghiên
cứu về những nguyên lư cho một lập luận
tốt (Goldman, 1986)
ü Phần
c̣n lại của lô gích sau khi trừ đi lô gích diễn
dịch và lô gích quy nạp (Copi,
1986)
ü Lô gích
của sự lập luận (Blair và Johnson, 1987)
ü Lư
thuyết về tư duy phản biện (Scriven, 1987)
ü Ngữ
dụng học (Fogelin, 1978; Walton, 1989)
ü Tu từ
học (Toulmin, 1992)
ü Nhận
thức luận ứng dụng (Weinstein, 1994)
ü Nghiên
cứu về phép biện luận (Weinstein, 1994: Hitchcock,
2000; Pinto, 2001)
Người ta thảo
luận vậy th́ LPH bao
chứa những công tŕnh về lô gích và tu từ học
của Aristote như thế nào? Người ta cũng
nhận thấy từ cách đây cả trăm năm
đă có những công tŕnh về giảng dạy lô gích cho
đại chúng theo tinh thần lư
lẽ phi h́nh thức. Có thể kể ra đây
trường phái lô gích ngữ
dụng (pragmatic logic) theo truyền thống lô gích Ba Lan do
Ajdukiewicz đứng
đầu.
2.2.
Trong Hội
thảo quốc tế lần thứ nhất về LPH
(26-28/6/1978), phần Phụ lục có ghi nhận đối
tượng của LPH bao
gồm 13 vấn đề sau:
ü Lư
thuyết phê b́nh lô gích
ü Lư
thuyết lập luận
ü
Lư thuyết
ngộ biện
ü
Tiếp cận
ngộ biện và tiếp cận phân tích phê phán
ü
Khả năng
tồn tại của lưỡng phân quy nạp/diễn
dịch
ü
Sự hợp
thức trong lập luận và phê b́nh lô gích
ü
Vấn đề
giả định và những tiền đề vắng
mặt
ü
Vấn đề
ngữ cảnh
ü
Phương pháp
trích rút luận cứ từ ngữ cảnh
ü
Phương pháp
thể hiện luận cứ
ü
Phương
diện sư phạm của LPH
ü
Đặc
điểm, phân loại và phạm vi của LPH
ü
Mối quan hệ
giữa LPH và những phân ngành
khác
2.3.
Có thể khái quát
về những phương
diện mà LPH hiện nay quan tâm khảo sát là:
ü
Lịch sử
nghiên cứu lập luận
ü
Lập luận và
lư thuyết hội thoại, hay:
lập luận là
cuộc thoại
Walton (1989, 2007) đă
nổi lên như một người đề
xuất có ư nghĩa nhất về cách tiếp cận
hội thoại của LPH. Ông
hiểu một cuộc hội thoại là một cuộc
trao đổi làm nên từ 3
trạng thái mở đầu, lập luận và kết
thúc. Ở trạng thái mở
đầu, những người hội thoại
đồng ư tham gia trao đổi. Những quy tắc hội thoại
được xác định theo kiểu lượt nói
năng được chấp nhận. Kiểu thoại
ở ṭa án khác kiểu thoại trong lớp học. Tùy
kiểu thoại mà kiểu câu hỏi nào được
phép và có thể trả lời
như thế nào.
Walton phân biệt 7 kiểu hội thoại
cơ bản: thuyết phục; inquiry (sự phỏng vấn;
điều tra); phát hiện (có
những điều được giả định,
cần giải thích); điều đ́nh ; thông tin; t́m kiếm hành
động (action-seeking); căi
vă cá nhân
ü
Mở rộng khái
niệm lập luận: những phương diện
biện chứng trong lập luận
Những cách tiếp
cận biện chứng về lập luận đă làm
nổi bật một
điều là sự lập luận là một cuộc
thoại giữa hai bên (hiện thực hoặc giả
tưởng) lập luận theo những quan điểm
khác nhau.Theo cách nh́n này, cấu trúc của những cuộc
thoại trong đó chứa đựng những lập
luận trở thành đối tượng nghiên cứu trong LPH. Phép biện
chứng-ngữ dụng coi những thảo luận phê phán
là một mô h́nh, phân biệt những trạng thái khác nhau
của cuộc thoại (đối đầu, mở
đầu, lập luận và kết thúc) và có những
quy tắc được áp
dụng cho từng giai đoạn.
Lập luận được dùng
như một công cụ để xác lập chân lư. Có
những chuẩn mực lập luận trong những hoàn
cảnh khác nhau với những kiểu thoại khác nhau.
Không có công cụ để xác định cái ǵ là đúng,
nhưng có những biện pháp gắng dàn xếp trong
thương lượng mà hai bên có xung đột về
lợi ích (giữa chủ và thợ chẳng hạn). Các lập luận hoạt
động theo những cách rất khác nhau. Có những
quy tắc chặt chẽ chi
phối mỗi cuộc trao đổi và cũng có những
quy tắc khác chi phối
cuộc thoại nhằm t́m ra chân lư. Cuộc thương lượng
giữa chủ và thợ
chẳng hạn, một dạng của hội thoại điều
đ́nh, một kiểu hội thoại dùng tới
những biện pháp đe dọa (đ́nh công hoặc sa
thải) là mấu chốt
của quá tŕnh lập luận.
Nhưng sự đe
dọa không có vai tṛ rơ ràng trong nhiều cuộc thoại
khác.
ü
Lư lẽ và lập luận
Lập
luận c̣n kết hợp với những h́nh vẽ, tranh
ảnh, áp phích. Khái niệm lư
lẽ được mở rộng: Những
h́nh ảnh và sơ đồ trong lập luận
sắm vai tṛ những luận chứng, ‘vật chứng’
tường minh – những lư
lẽ không lời –
tăng thêm sự thuyết phục, thường
thấy trong lập luận.
Nhất là trong những t́nh huống tranh căi th́
những h́nh ảnh, những sơ đồ là một
phương diện khác được nhấn mạnh
của lập luận đồng thời cũng là
những lư lẽ. Những
đoạn quảng cáo kèm h́nh ảnh là những lập
luận.
ü
Lư thuyết
mới về suy luận
ü
Lược
đồ lập luận
(argument schemes)
ü
Cấu trúc và
sơ đồ (diagrams)
ü
Lư thuyết
ngộ biện
Ngộ biện đă được
tŕnh bày từ thời Aristote. Người ta nghiên cứu
vai tṛ của ngộ biện và phân loại chúng dưới
góc độ LPH. Những công tŕnh thời kỳ
đầu về LPH thiên
về coi ngộ biện là con đường để
đánh giá những lập luận phi h́nh thức. Những
quan điểm truyền thống định nghĩa
"ngộ biện" là một chuỗi những lập
luận tồi nhưng có
vẻ (hay là cố gắng bắt chước) tựa
như một chuỗi lập luận tốt (x. Hansen,
2002). Quan điểm này trở thành cơ sở mù mờ
cho cách tiếp cận chung về ngộ biện, một
lập luận với người này th́ có vẻ tốt
nhưng với người kia th́ không.
Tuy chưa nhất trí về sự phân
loại các ngộ biện
nhưng có một tập hợp những ngộ
biện điển h́nh hay được sử dụng
để phân tích những lập luận phi h́nh
thức. Chúng bao gồm những ngộ biện h́nh
thức như khẳng định kết quả và
phủ định tiền đề; và những ngộ
biện phi h́nh thức kiểu
ad hominem (“tấn công cá nhân”), lập luận sai kiểu
“dốc trượt” (slippery slope),
kiểu ad bacculum
(viện vào sức mạnh), ad misericordiam (viện vào
ḷng nhân từ), “sự khái quát hóa vội vă”, và kiểu “hai
điều sai” (“hai cái sai có thể thành cái đúng”.
Lư thuyết "ngữ
dụng – biện chứng” của Van Emeren & Grootendorst
1992 phân tích các ngộ biện
như là những sự vi phạm quy tắc của tranh luận phê phán.
Một vài nghiên cứu
trong lô gích phi h́nh thức tiếp tục nhấn mạnh
vào những ngộ biện và cách hiểu thích hợp
của những ngộ biện đặc thù.
Nhiều nhà phê b́nh lư
thuyết ngộ biện cho rằng những ngộ biện trên cơ
sở truyền thống là
những công cụ không chính xác cho cách hiểu một
lập luận, bởi lẽ tất yếu từ đây
sẽ là nhấn mạnh tới những lư lẽ tồi hơn là những
lư lẽ tốt. Chẳng
hạn, Hitchcock (1995, 324) đă
viết rằng lời tuyên bố chúng ta có thể dạy
những lư lẽ tốt qua
những ngộ biện chẳng khác nào nói “cách tốt
nhất để dạy chơi quần vợt là nói
về những động tác
sai… rồi thực hiện mô phạm những động
tác sai đó”.
Những khó khăn đặt ra với lư thuyết ngộ
biện càng tăng thêm khi có những nghiên cứu đă xác định được rất nhiều trường
hợp của "ngộ biện" mà nay đă
trở thành những kiểu lập luận
được chấp nhận trong nói năng hàng ngày. Có
thể kể ra đây nhiều lập luận đă và
đang xuất hiện trong những góp ư cho sửa
đổi Hiến Pháp-92. Nhưng tôi nêu một ví dụ
của thiên hạ.
Martin Luther King, người
chịu ảnh hưởng của nhà triết học
Ấn Độ Gandhi, lập luận rằng, ở
một quốc gia dân chủ, chúng ta có thể phá luật
nếu điều thay
đổi chúng ta hướng
đến đă bị
ngăn cản một cách không đúng đắn. Lập
luận này đóng một vai tṛ vô cùng quan trọng trong quá
tŕnh thay đổi và phát triển của luật dân sự
Mỹ. Lập luận này không hoàn toàn sai, mặc dù nó chính
là trường hợp của ngộ biện "hai cái sai thành cái đúng". Nói cách khác,
đây là lập luận theo kiểu chúng ta có thể làm
một điều sai nào đấy (phá luật chẳng
hạn) nhằm phản
ứng lại một điều sai khác (điều
luật hoặc chính sách đă ngăn cản không đúng
đắn sự thay đổi).
Ngộ biện ad
hominem (tấn công cá nhân)
cũng t́m thấy đầy rẫy trong đời
sống hàng ngày. Ví dụ: “Chúng ta không nên
nghe ông ấy. Ông ta
muốn tách tập đoàn này thành hai tổng công ty chỉ để phục vụ
cho lợi ích của ông ta mà thôi.” Lập luận này
thể hiện sự ngờ vực về mục đích
đằng sau lời đề nghị tách tập đoàn
này thành hai tổng công ty bằng nhận xét rằng do
lợi ích cá nhân (của ông ta) mà có
sự đề nghị này.
Lập luận này mắc lỗi "tấn công cá
nhân đối thủ thay v́ tấn công vào bằng chứng
và lập luận của đối thủ."
ü
(Thế nào là)
sự chính xác của tiền đề?
ü
Lư thuyết
lập luận phê b́nh
ü
Vai tṛ xă hội và
văn hóa trong lập luận
ü
Đặc trưng tu từ của lập luận
ü
Lư thuyết
lập luận là ngữ dụng học
ü
Sự phân tích
lập luận
ü
Lư thuyết về
sự đánh giá (The theory of
evaluation)
LPH hiện nay hợp nhất cách tiếp cận diễn ngôn
và lập luận trên cơ
sở những lĩnh vực nghiên cứu hữu quan
như hành vi thông tin lời nói
(Speech Communication), tu từ học, ngôn ngữ học,
trí khôn nhân tạo (Artificial
Intelligence), tâm lư học tri nhận, mô h́nh máy tính (Computational Modeling)… là sự tích
hợp nhiều ngành rộng răi và phát triển thành một
‘lư thuyết lập luận’ được coi là toàn
diện về lư luận phi h́nh thức.
3.
Những thành phần của một hệ
LPH
Từ những
đối tượng và phương diện mà LPH quan tâm
và nghiên cứu, dù không thể
xác định được tuyệt đối một
danh sách những phương diện cần khảo sát và
bàn thảo của LPH, nhưng
những trạng thái nghiên cứu hiện thời gợi ư
rằng một lư thuyết đầy đủ về LPH
để t́m hiểu và
đánh giá những lập
luận phi h́nh thức sẽ bao gồm:
1.
Một danh sách
những nguyên lư thông tin mà những trao đổi lập
luận sẽ phụ thuộc.
2.
Sự phân biệt
giữa các loại giao tiếp khác nhau ở đó có
thể xuất hiện lập luận và phương
thức xác định những thay đổi thích hợp và không thích hợp
trong lập luận (ví dụ:
sự khác biệt giữa tranh luận khoa học và đàm
phán).
3.
Một danh sách
những hệ quả lô gích, mà chúng giải thích khi nào có
thể nói rằng một tuyên bố (hay một thái
độ) nào đó là một hệ quả lô gích của
một điều khác.
4.
Một loại
h́nh học lập luận cung
cấp một cơ cấu và
phân tích lập luận qua
sự nhận diện các kiểu lập luận cơ bản cần
được phân biệt.
5.
Một danh sách
lập luận tốt, qua đó xác định tiêu chí
tổng quát cho những lập luận suy diễn, quy nạp và dẫn dắt
(conductive).
6.
Sự xác
định sơ đồ lập luận tốt mà chúng
định rơ những khuôn
lư lẽ tốt.
(viện tới quyền uy hợp lư; tấn công cá nhân
hợp lư;v.v.)
7.
Miêu tả lư thuyết các ngộ biện và
vai tṛ mà chúng có thể (và không thể) dùng để
hiểu và đánh giá những
lập luận phi h́nh thức.
8.
Miêu tả vai tṛ
cảm xúc (pathos)
của cử tọa và vai tṛ thẩm mỹ (ethos)
cùng những khái niệm tu
từ khác trong phân tích và tiếp nhận lập luận.
9.
Tŕnh bày những
biện chứng tất yếu tác động tới những kiểu lập luận
trong ngữ cảnh.
Mỗi thành tố trên có
thể được xếp vào một nhóm vấn
đề đặc thù đặt ra trong toàn bộ
khảo sát về lập luận.
Một cách tiếp cận toàn diện về những
nguyên lư thông tin mà một lập
luận phải phụ thuộc và về nhiều nguyên lư nhờ chúng người ta có thể
nhận biết được ư nghĩa của những
h́nh ảnh (bức ảnh, đồ thị, lược
đồ, sự minh họa, video, specimens; …) và những
yếu tố không lời khác. Trên đường t́m giải
pháp chung về một lập
luận tốt, một lư thuyết đầy đủ
hẳn là đă bao gồm cả giải pháp về sự
mở rộng mà ở đó mỗi tiêu chí về một
lập luận tốt sẽ
có thể h́nh thức hóa được và có những
cách tốt nhất để làm điều đó. Trong một giáo tŕnh sau này,
người ta có thể hỏi liệu giải pháp về
lập luận nảy sinh từ LPH có cung cấp một
cơ sở cho mô h́nh tính toán và dùng máy tính giải quyết
những kiểu lư lẽ
đặc trưng cho những ngữ cảnh phi h́nh
thức hay không (xem chẳng hạn
Reed & Norman (2004) bàn về vấn đề này).
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Ajdukiewicz K., 1965, Logika pragmatyczna, PWN, [được O. Wojtasiewicz dịch sang
tiếng Anh: 1974, Pragmatic
Logic, Dordrecht/Boston/Warsaw: D. Reidel Publishing Company & PWN]
Anscombre
J.M. & Ducrot O., 1983, L’argumentation
dans la langue, Mardaga
Blair
J.A., and Johnson R.H., (Ed.), 1980, Informal
Logic: The First International Symposium. Inverness, CA: Edgepress.
Blair
J.A., and Johnson R.H., 1987, Argumentation as dialectical, Argumentation,
1, 41-56.
Browne M. Neil and Stuart M. Keeley, 2010, Asking
the Right Questions: A Guide to Critical Thinking , 10th Edition, Englewood Cliffs: Prentice Hall.
Carney
J.D. and R.K. Scheer. 1964, Fundamentals of Logic. (3rd edition, 1980).
New York: Macmillan Publishing Co., Inc. and London: Collier Macmillan
Publishers.
Đỗ Hữu
Châu 2001, Ngữ dụng học, nxb Giáo dục, HN
Đỗ Hữu
Châu & Bùi Minh Toán, 1993, Đại cương ngôn ngữ
học, t. II, nxb Giáo dục, HN
Nguyễn
Đức Dân 1998, Ngữ dụng học , nxb
Giáo dục
Nguyễn Đức Dân
2004, Nhập môn lô gích h́nh thức và lô gích phi h́nh thức
, nxb ĐH Quốc Gia Hà Nội
Copi
I.M., 1986, Informal Logic. New
York: MacMillan
Ducrot
O., 1973, Les Echelles argumentative, trong La
preuve et le dire
1979, “Les lois du discours”, Langue Francaise, nr. 42
1984, Le dire et le dit, Minuit.
Finocchiaro
M. 1984, Informal Logic and the Theory of Reasoning. Informal Logic. 6
Fisher Alec, 2004. The Logic of Real
Arguments, Cambridge: CUP
Fogelin
R. J. 1978, Understanding Arguments: An Introduction to Informal Logic.
(4th edition, 1991, with W. Sinnott-Armstrong)
New York: Harcourt Brace Jovanovich
Goldman
A.I. 1986, Epistemology and Cognition.
Cambridge: Harvard University Press
Govier Trudy, 2006. A Practical Study of
Argument, 6th edition, Belmont, CA: Wadsworth
Grice
P. 1975, Logic and Conversation, In P. Cole and J. Morgan, (Ed.), Syntax
and Semantics, Vol. 3, New York: Academic Press
Groarke Leo and Christopher Tindale, 2012, Good
Reasoning Matters! (5th edition), Toronto: Oxford University Press
Hansen Hans V., 2002, “The Straw Thing of
Fallacy Theory: The Standard Definition of ‘Fallacy’,” Argumentation,
16(2): 133–155
Hitchcock D., 1995, “Do Fallacies Have a Place
in the Teaching of Reasoning Skills or Critical Thinking?” in Hans V. Hansen
and Robert C. Pinto (Ed.), Fallacies: Classical and Contemporary Readings,
University Park, PA: Pensylvania State University Press
Hitchcock
D., 2000, The Significance of Informal Logic for Philosophy. Informal Logic:
20:2, 129-138
Hughes William, Jonathan Lavery & Katheryn
Doran, 2010, Critical Thinking: An Introduction to the Basic Skills, 6th
edition, Peterborough: Broadview
Johnson
R. H. 1999, The relation between formal and informal logic. Argumentation,
13(3), 265-74
Johnson
R.H., 2006, Making sense of ‘Informal Logic” , Informal Logic Vol.26, No 3, 231-258
Johnson
R.H. and Blair J.A., 1977, Logical
Self-Defense, (3rd edition, 1993), Toronto: McGraw-Hill Ryerson
Moeschler
J., 1985, Argumentation et Conversation.
Éléments pour une analyse pragmatique du discours, Paris: Hatier-Crédif
Munson
R. , 1976, The Way of Words: An Informal Logic. Boston: Houghton Mifflin
Perelman
Ch. ,1989, Formal Logic and Informal Logic. In M. Meyer (Ed.), From
Metaphysics to Rhetoric, 9-14. Dordrecht: Kluwer Academic Publishers
Perelman C. & Olbrechts-Tyteca L. 1958, Traité de l’argumentation – La Nouvelle Rhétorique, Bruxelles: Éditions de
l’Université de Bruxelles. (J.
Wilkinson & P. Weaver dịch sang tiếng Anh: The New Rhetoric: A Treatise on
Argumentation , 1969)
Pinto
R.C. ,1994, Logic, Epistemology and Argument Appraisal. In R. H. Johnson &
J. A. Blair (Ed.), New Essays in Informal Logic ,116-124, Windsor, ON:
Informal Logic
Plantin
Ch., 1990, Essais sur L’Argumentation, Paris:
Kimé
Reed
C. & Norman T.J., (Ed.), 2004, Argumentation Machines: New Frontiers in
Argument and Computation. Dordrecht and Boston: Kluwer
Rescher
N. ,1977, Dialectics: A Controversy-Oriented Approach to the Theory of
Knowledge, Albany: State University of New York Press
Ryle
G. ,1953, Dilemmas, Cambridge: Cambridge University Press
Scriven
M. , 1987, Probative logic: review and preview. In van Eemeren et al (Ed.), Argumentation
Across the Lines of Discipline, 7-32. Dordrecht: Foris
Seay Gary and Susana Nuccetelli 2012, How to Think Logically, 2nd edition,
Boston: Pearson
Strawson
P.F. ,1952, Introduction to Logical Theory
Toulmin
S. ,1992, Logic, Rhetoric & Reason:
Redressing the Balance. In van Eemeren et al (Ed.), Argumentation Illuminated, 3-11.
Amsterdam: SicSat
Walton
D.N., 1989, Informal Logic: A Handbook for Critical Argumentation.
Cambridge: CUP
Walton
D.N. ,1990, What is Reasoning? What is an Argument? The Journal of
Philosophy, 87, 399-419.
Walton D.N., 2007, Dialog Theory for Critical
Argumentation, Amsterdam: John Benjamins Publishing Company
Weinstein
M. ,1994, Informal logic and Applied Epistemology, In R. H. Johnson & J. A.
Blair (Ed.), New Essays in Informal Logic ,140-161, Windsor
Woods J., Irvine A., and Walton D., 2004, Argument: Critical Thinking, Logic and the
Fallacies, Toronto: Prentice Hall
Tóm
tắt
Giới thiệu lô gích phi h́nh thức (LPH)
Phần đầu đề
cập tới quá tŕnh h́nh thành và những công tŕnh mở
đầu về LPH.
Phần sau giới thiệu LPH có
phạm vi nghiên cứu rất rộng răi. Đó là những
lư thuyết về ngộ biện, lập luận, hội
thoại, tư duy phản biện. Có thể nói, LPH là
ngữ dụng học.
Abstract
A brief introduction to Informal Logic (IL)
In this article, I first present the souces of
emergence of IL.
I then briefly introduce the recent developments
in IL rresearches.
Tác
giả:
Nguyễn
Đức Dân
118/12 Trần Quang Diệu; Phường 14,
Quận 3, TP HCM
Di động: 0919 42 02 74
[1]
) Bài này là báo cáo đă
tŕnh bày tại Hội nghị ngôn ngữ học quốc tế,
11.5.2013, tại Hà Nội, Viện
Ngôn ngữ học Việt Nam tổ chức. Tạp
chí Ngôn ngữ đă
đăng lại bài này ở số 7, 2013, trang 3 – 13.
[2] ) Bài
viết này chủ yếu
dựa theo các công tŕnh Historical Foundations of Informal Logic
(1997) của Walton và Brinton [biên
tập], Making sense of ‘Informal Logic” (2006) của Johnson, Informal Logic (1989, 2008)
của Walton và mục Informal Logic trong Stanford
Encyclopedia of Philosophy (truy cập từ Internet, ngày
28.11.2011). Những tài liệu
tham khảo trong bài này phần
lớn được dẫn
theo những công tŕnh trên.
[3]
“Rules that hold for a formal device may not
hold for the natural counterpart”