Định
hướng nghĩa của từ
NguyễnĐứcDân
1. Ngữ nghĩa các từ
hư: Định
hướng nghĩa của từ[1]
1.1.
Đặt vấn
đề
1.1.1.
Trong truyền thống Việt ngữ học, từ vựng
tiếng Việt được phân thành thực từ và
hư từ (cũng gọi là từ hư). Thực từ
là những từ có ư nghĩa từ vựng, có chức
năng định danh và có thể đảm nhận vai
tṛ làm các thành tố chính trong cấu tạo cụm từ
và cấu tạo câu.Hư từ không có chức năng
định danh, không có thể đảm nhận vai tṛ các
thành tố chính trong cấu tạo cụm từ và cấu
tạo câu. Hư từ được phân thành ba lớp phụ
từ, quan hệ từ và t́nh thái từ gồm trợ từ,
tiểu từ và cảm từ (thán từ).Thậm chí về
phương diện nghĩa, có người c̣n coi hư từ
là những từ rỗng
nghĩa (empty word, mot vide) [62]. Những từ sau
đây thường được coi là từ
hư: tuy, à, vì,
nếu, thì, nhưng, vả lại, không, với…Những
từ này được coi là có
các ý nghĩa tình thái và quan hệ
khác nhau, có ý nghĩa phủ định,
ý nghĩa nghi vấn, ý nghĩa nhấn mạnh,
ý nghĩa thời gian…. Hầu như các nhà Việt
ngữ học quan tâm tới từ vựng và ngữ pháp
đều đề cập tới lớp từ này. Chẳng
hạn [3], [4], [8], [41], [40], [44], [61], [62], [64], [76], [81], [84],
[85], [88], [91],…
1.1.2.
Chúng tôi muốn lưu ý rằng các
từ hư còn có những ý nghĩa
khác nữa. Quan sát các câu sau:
(1a)
Giá quyển sách này 15 đồng.
(2a)
Giá quyển sách này có 15 đồng.
Hai câu này giống nhau
ở chỗ đều thông báo về giá
sách, nhưng chúng có chỗ khác nhau rất
cơ bản. Thật vậy, xét các chuỗi câu thể
hiện những lập luận:
(1b)
Giá quyển sách này 15 đồng.Rẻ
quá.
(1c)
Giá quyển sách này 15
đồng.Đắt quá.
(2b)
Giá quyển sách này có 15 đồng.Rẻ
quá.
(2c)
Giá quyển sách này có 15 đồng.*Đắt
quá.
Vì sao cả (1b) lẫn (1c)
đều là những lập luận chấp nhận
được trong khi đó chỉ có (2b)
là chấp nhận được c̣n (2c) th́ không?
Trước hết,
chúng ta chú ý rằng “rẻ quá” và
“đắt quá” là hai câu thể hiện sự b́nh luận,
đánh giá của người nói
về giá sách. Trong câu (1a) chỉ là sự thông
báo về giá sách. Vì thế nó có
thể kết hợp, chấp nhận hai sự b́nh
luận, đánh giá khác nhau (“rẻ quá”
hoặc “đắt quá”). Chính vì trong (2a)
đã có sự đánh giá và
đó là đánh giá rẻ về giá
sách nên nó chỉ có thể kết hợp
với “rẻ quá” mà thôi.
Như vậy, nghĩa
của câu (2a) gồm hai phần: phần thông báo và phần b́nh luận, đánh giá của
người nói. Từ có đã
làm cho người nghe nhận ra trong câu (2a) có
sự đánh giá của người
nói và đó là sự đánh
giá rẻ về giá sách. Trong câu (2c), phần
đầu là sự đánh giá rẻ đã
mâu thuẫn với phần sau có sự
đánh giá đắt. Vì thế (2c) không
chấp nhận được.
Lại xét câu (3a):
(3a)
Tuy nhiên giá quyển sách này vẫn có 15
đồng.
V́ tuy
nhiên phản ánh cấu trúc nghịch nhân quả [xem §2.
chương 3] nên chúng ta chỉ có thể dùng
từ tuy nhiên ở
câu trên trong điều kiện sau: Trước (3a)
đã có một phát ngôn P và phát ngôn P
đã làm cho ta nghĩ rằng giá sách
đã thay đổi. Thật vậy, xét hai
chuỗi phát ngôn sau:
(3b)
Mọi thứ đều tăng.Tuy nhiên giá
quyển sách này vẫn có 15 đồng.
(3c)
Mọi thứ hầu như không thay đổi. *Tuy
nhiên giá quyển sách này vẫn có 15
đồng.
Phát ngôn “mọi
thứ đều tăng” làm cho ta nghĩ rằng
giá sách đã thay đổi theo
hướng tăng lên. Còn phát ngôn “mọi
thứ hầu như không thay đổi” làm ta
nghĩ rằng giá sách cũng không thay
đổi – một điều trái ngược
với điều kiện trên đây. Chính vì
vậy mà (3c) không chấp nhận được.
Thế là, trong câu (3a) ngoài chức năng thông báo, ngoài
sự đánh giá
rẻ của người nói là hàm ư của (3a), còn
có điều kiện
dùng của câu đó. Từ “có”
đã thể hiện sự đánh giá rẻ
của người nói, còn trạng ngữ
tuy nhiên đòi hỏi
những điều kiện dùng của (3a) như
đã nêu. Đó là những cơ chế
ngôn ngữ, một cơ chế quy ước
chứ không phải là cơ chế hội
thoại. Cơ chế hội thoại ở đây
được hiểu theo nghĩa của P. Grice [95].
Những hàm ý suy ra nhờ cơ chế hội
thoại là ngầm ẩn được giải
thích theo nguyên lư cộng tác hội thoại và
điều này được cụ thể
hoá bằng 4 phương châm hội thoại.
Như vậy nghĩa của
câu (2a) và (3a) đều có hai phần: Phần
hiển ngôn trong hai trường hợp này
là thông báo về giá sách. Phần
thứ hai, chúng tôi gọi là sự định hướng nghĩa,
ở đó nói lên hàm ý của
người nói và điều kiện dùng
của câu.
Tóm lại, những cơ chế ngôn
ngữ tạo ra điều kiện dùng của
một câu và những hàm ý của
người nói là những định
hướng nghĩa của câu đó.
Trong phần này chúng
tôi đề cập, miêu tả và giải thích
một số cơ chế định hướng
nghĩa trong tiếng Việt.
1.1.3.
Trong giao tiếp có nhu cầu trao đổi,
đối đáp qua lại. Do nhu cầu cần
diễn đạt tế nhị, tránh nói
trực diện trong khẳng định cũng
như trong bác bỏ mà đã hình thành
hàng loạt kiểu định hướng
nghĩa khác nhau. Trước hết, đó
là các cơ chế thể hiện các hành
vi đánh giá, bình luận về sự
vật, so sánh, đối chiếu các sự
vật, các hành vi thể hiện sự
đồng tình, chấp nhận, khẳng
định hay bác bỏ ý kiến của
người khác, các hành vi thề,
hứa, cam đoan, hoặc để bày tỏ
thái độ bất bình, không hài lòng,
hoặc để gợi ý…
Phần này nghiên
cứu những định hướng nghĩa
theo lí thuyết các hành vi ngôn ngữ.
1.1.4.
Để thể hiện một hành vi ngôn ngữ
chúng ta có thể dùng nhiều phương
thức ngôn ngữ khác nhau. Những
hành vi ấy có thể được
từ vựng hoá, nghĩa là ứng
với mỗi hành vi đều có ít
nhất một từ chuyên dùng để thể
hiện nó. Để biểu thị sự hài
lòng chúng ta nói “tôi hài
lòng về…”, để hứa hẹn chúng
ta nói “tôi hứa
rằng…”, để bày tỏ ý kiến ta
nói “tôi cho rằng…”.
Các động từ hài
lòng, hứa, cho rằng…là những
động từ ngữ vi, hiểu theo nghĩa
của Austin [92]. Ngoài động từ ngữ
vi, người ta cũng có thể dùng các
phương thức khác. Chẳng hạn,
để thể hiện hành vi đánh giá ít,
chúng ta có thể dùng từ có mà cũng có thể dùng
từ thôi: “Giá
quyển sách này 15 đồng thôi”.
Như vậy, khi nói
rằng một cơ chế ngôn ngữ nào
đó được dùng để thể
hiện hành vi A, thì điều đó không
có nghĩa là hành vi A chỉ
được thể hiện duy nhất qua cơ
chế đó mà thôi.
1.2.
Những tác tử
định hướng nghĩa về sự
đánh giá
1.2.1. Xét
các câu sau:
(1) a. Giá
quyển sách này 15 đồng.
b. Giá quyển sách
này có 15
đồng.
c. Giá quyển sách
này những 15
đồng.
Ba câu trên luôn luôn cùng
một giá trị chân lư, nghĩa là chúng
cùng đúng hoặc cùng sai.Nói cách khác, hiển
ngôn của chúng giống nhau.Thế nhưng, (1b) và (1c)
còn thể hiện sự đánh giá
của người nói. Hai câu này chỉ
khác câu (1a) ở chỗ chúng thêm từ có hoặc từ những đứng
trước cụm từ định
lượng “15 đồng”.Vậy có và những
là hai tác tử định hướng nghĩa.
Chúng tôi dùng thuật ngữ tác tử ở đây theo
nghĩa những yếu tố tác động vào một từ
nào đó trong câu sẽ tạo ra hàm ư – những định
hướng nghĩa – bổ sung cho hiển ngôn và do đó
định hướng nghĩa cho một lập luận.
Quan sát một số câu
khác chứa từ có
được dùng với chức năng
“nhấn mạnh” theo cách gọi của ngữ
học truyền thống: “Tôi cao có 1m55”. “Anh ấy
làm được có 1 bài”. “Cô Ba
nặng có 40 kg”…Ngoài phần hiển ngôn, qua
những câu này người ta muốn nói
rằng “Tôi thuộc loại thấp” “Anh ấy làm
được ít bài” “Cô Ba thuộc loại
nhẹ cân”…Những định hướng
nghĩa rẻ, thấp,
ít, nhẹ…này phản ánh cơ cấu
nghĩa sau đây của tác tử có:
“Khi dùng để
định hướng nghĩa, từ có
thể hiện sự đánh giá mức độ
ÍT về đối tượng
được đề cập tới so
với mức thông thường hoặc
trong một quan hệ đối chiếu nào
đó”. Nét nghĩa ÍT này mang tính
khái quát, nó đại diện cho các
nét rẻ, thấp, ít,
nhẹ…
Tương tự,
từ những thể hiện sự
đánh giá mức độ NHIỀU về
đối tượng được đề
cập tới so với mức thông
thường hoặc trong một mối quan hệ
đối chiếu nào đó”. Nét nghĩa
NHIỀU này cũng mang tính khái quát,
nó đại diện cho các nét đắt, cao, nhiều, nặng…
Lại xét hai câu khác:
(4) Cháu
tôi mới 8 tuổi mà đã cao những 1m20.
(5) Tôi
chỉ có 10 đồng mà quyển sách này
những 15 đồng.
Trong câu (4), chiều cao 1m20
được coi là nhiều
so với trẻ 8 tuổi bình thường.Trong
câu (5), giá sách 15 đồng được coi
là nhiều so
với túi tiền của tôi, chứ không
phải là nhiều trong sự đánh giá
tuyệt đối.
Không nên lầm lẫn hai
từ trên đây với động từ có trỏ quan hệ
sở hữu hoặc tồn tại và
lượng từ những
trỏ số lượng.
Với cương vị là một
từ hư, cấu trúc “…có A”biểu thị người
nói đánh giá A ở mức
độ [ÍT] c̣n cấu trúc “…những
A”biểu thị người nói đánh giá A ở mức độ [NHIỀU].
Trong những t́nh huống này,
hai biểu thức “…có A”và “…những A”định
hướng cho những lập luận với kết
đề theo hai hướng khác nhau, tùy theo A có thuộc
tính định hướng dương [ + ] hay định
hướng âm [ – ]. Ví dụ:
(6) Trường
này có những 100 giáo sư và phó giáo sư.
(7) Trường này có những
100 giáo sư và phó giáo sư “nằm vùng”.
Lấy
câu (6) làm tiền đề chúng ta có thể tạo ra lập
luận (8a) nhưng không thể tạo ra lập luận
(8b):
(8a) Trường
này có những 100 giáo sư và phó giáo sư.Như vậy,
chất lượng đào tạo sẽ rất cao.
(8b) Trường
này có những 100 giáo sư và phó giáo sư. *Như vậy,
chất lượng đào tạo sẽ chẳng ra ǵ.
Trong
khi đó nếu lấy câu (7) làm tiền đề th́ t́nh
h́nh sẽ đảo ngược.Khả năng chấp nhận
kết đề sẽ bị đảo ngược.
Nghĩa là chỉ có thể chấp nhận (9b)
mà không thể chấp nhận
(9a), những kết đề tương tự
như của (8a), (8b).
(9a) Trường
này có những 100 giáo sư và phó giáo sư “nằm
vùng”. *Như vậy, chất lượng đào tạo sẽ
rất cao.
(9b) Trường
này có những 100 giáo sư và phó giáo sư “nằm
vùng”.Như vậy, chất lượng đào tạo sẽ
chẳng ra ǵ.
V́ sao vậy?V́ xă hội chấp
nhận lư lẽ về quan hệ nhân quả “thầy nào
tṛ ấy”, nghĩa là “Thầy giỏi th́ tṛ giỏi, thầy
kém th́ tṛ kém” chứ không ngược lại.Mà “giáo sư và
phó giáo sư” được mặc định là những
người thầy có tŕnh độ cao, những người
giỏi.Bởi vậy, câu (8a) là hoàn toàn b́nh thường
c̣n (8b) là ngược đời, khó thuyết phục. C̣n
trong hai câu (9) từ “nằm vùng” khiến cho “giáo sư và
phó giáo sư nằm vùng” lại
là những giảng viên hữu danh vô thực, vậy nên
đương nhiên kết đề sẽ đảo
ngược.
1.2.2. Chính nhờ những
nét nghĩa định hướng khái
quát vừa nêu, chúng ta miêu tả và giải
thích được nghĩa trong nhiều câu
chứa những từ này, mà
mới xem thấy rất khó giải thích.
(10) a.
Mình nhận thấy cô ấy có yêu cậu.
(Nguyễn Thị Ngọc Tú, Cỏ lồng vực).
b.
Chờ mươi phút nữa có lâu là mấy.
(PTD, Những mảnh
tàn lá)
c. Có vậy sao?
Chính nhờ nét
nghĩa “ít” của
từ có mà
chúng ta thấy rằng trong câu 10a người
nói cho rằng tình yêu đó chưa thể
hiện mạnh. Còn “có x là mấy” có
nghĩa là “x được coi là không
đáng kể” và vì vậy “có lâu là
mấy” trong (10b) có nghĩa là “lâu không đáng
kể”. Còn (10c) chính là dạng rút gọn
của “có ít vậy sao?”. Lại xét:
(11) Tối
qua con đi những
đâu?
(12) a. Hôm nay
trời lạnh quá, những
7 độ.
b. Hôm nay trời nóng
quá, những 37
độ.
(13) Một
nụ cười thoáng qua bộ râu của
người hầu, Jan những
muốn chạy trốn. (MCĐ)
(14) Nuôi con những ước
về sau / Trao tơ phải lứa gieo cầu
đúng nơi (Truyện Kiều)
Chính nhờ nét
nghĩa [+ nhiều] rất
khái quát của từ những
mà: Ở câu (11), người bố hoặc mẹ
cho rằng “Tối qua đứa con đă đi
nhiều nơi”. Người con gái trong câu (11) có thể phản
ứng lại bằng cách trả lời bác bỏ điểm
nhấn những: “Có đâu
mà những. Con chỉ sang ôn
thi ở nhà cái Ngọc”. Hai từ những trong các câu (12) được
dùng theo cùng một định hướng
nghĩa. Về thời tiết khi nhiệt độ càng
gần 0độ th́ trời càng lạnh, nghĩa là lạnh
ở mức độ nhiều, rất lạnh; khi nhiệt
độ trên 30 độ, càng xa mốc 30 th́ trời càng
nóng, nghĩa là nóng ở mức độ nhiều, rất
nóng. Cho nên “những 7
độ” có nghĩa là lạnh lắm và “những 37 độ”
có nghĩa là nóng lắm. Trong câu (13),
từ những vẫn
mang định hướng nghĩa nhiều: “Jan
rất muốn chạy trốn vì quá
ngượng”.
Vì
các định hướng nghĩa rất
khái quát nên chúng không nhiều. Do đó,
cần và có thể tìm được
một tập hợp các định
hướng nghĩa trong tiếng Việt, nhờ
đó miêu tả và giải thích
được nhiều hoạt động nghĩa
của từ, đặc biệt là của
các từ hư, và qua đó là vấn
đề ngữ nghĩa cú pháp của
tiếng Việt.
1.2.3. Làm thế nào xác
định được định hướng
nghĩa của một từ? Khó mà tìm
được câu trả lời khái quát.
Tuy nhiên, trong quá trình tìm định
hướng nghĩa của từ chúng ta
cần chú ý mấy biện pháp sau:
-
Bắt đầu nghiên cứu từ
những câu đơn giản nhất có
chứa từ mà chúng ta quan tâm, đồng
thời không chứa các từ tình
thái và những từ hư khác.
-
Vì các định hướng nghĩa có
tính khái quát nên cần hình thức hoá các cấu trúc ngôn
ngữ chứa từ mà chúng ta quan tâm.
Cấu trúc khái quát của câu “Tuy nhiên, giá
quyển sách này vẫn có 15 đồng”
là “Tuy nhiên, P”, ở đó P là một câu
tường thuật. Khi cho P là những câu cụ
thể thì cấu trúc này trở thành
những câu cụ thể khác nhau. Phần nghĩa
chung nhất của những câu này chính là
nghĩa của từ tuy nhiên.
Cấu trúc “Tuy nhiên, P” luôn luôn có nghĩa sau: Có những điều khiến ta nghĩ rằng
[/tưởng rằng]sẽ không xảy ra P. Nếu
muốn nghiên cứu từ vẫn, chúng ta lại hình thức
hoá câu (3a) trên đây như sau “Tuy nhiên, x vẫn a”.Hai
từ tuy nhiên và vẫn không kết hợp
với nhau thành cặp, nghĩa là chúng không nhất
thiết xuất hiện đồng thời. Do vậy
để nghiên cứu nghĩa của vẫn, trong cấu trúc trên chúng ta có thể
lược bỏ “tuy nhiên”. Nghĩa là chỉ cần nghiên
cứu những câu có cấu trúc khái
quát “x vẫn a”, viết dưới dạng chủ vị là “C vẫn
V”. Dễ dàng có hàng loạt ví dụ chứng tỏ rằng
cấu trúc đó có một TGĐ là “C tiếp tục ở
trạng thái V” hay là “C không thay đổi trạng thái”. Nói
cách khác, từ vẫn có một
TGĐ (và định hướng nghĩa của nó) là “chủ
thể của một sự t́nh không thay đổi trạng
thái.
-
Cần dựa vào những từ đã
biết định hướng nghĩa để
xác định định hướng nghĩa
của những từ khác.
-
Những định hướng nghĩa của
từ sẽ tạo ra hướng nghĩa của
câu. Vậy cần xây
dựng các ngữ cảnh thích hợp
của một câu, nghĩa là tìm những
câu khác có thể kết hợp với câu
đã cho thành những chuỗi câu chuẩn.
Chính những chuỗi câu không chuẩn sẽ
giúp ta phát hiện được định
hướng nghĩa của câu chứa từ
được quan tâm.
-
Khi gặp một câu chứa nhiều từ
định hướng nghĩa thì điều
kiện cần để một câu được coi
là chuẩn ngữ nghĩa sẽ như sau: Nếu trong một câu có
nhiều từ định hướng nghĩa
thì các định hướng nghĩa
đó không trái ngược nhau.
Ví
dụ 1: Chúng ta tìm định hướng
nghĩa của kia và thôi. Xét các câu:
(15) Giá
quyển sách này 15 đồng à?
(16) Giá
quyển sách này 15 đồng kia à?
(17) Giá
quyển sách này 15 đồng thôi à?
Các câu trên đều
được dùng để hỏi về giá
sách. Nhưng ở (16) và (17) đều có
thêm sự đánh giá của người
nói, giống hệt (1c) và (1b): ở (16)
người nói cho rằng giá 15 đồng
là đắt, còn ở (17) thì giá
đó là rẻ. Kiểm nghiệm điều
này như thế nào? Tính đúng sai
của những câu sau đây cho thấy rõ điều
đó:
(18) Giá
quyển sách này có
15 đồng *kia[/thôi] à?
(19) Giá quyển sách
này những 15
đồng *thôi [/kia]à?
Rõ ràng là khi
từ kia đi
với có
hoặc từ những
đi với từ thôi
thì chúng ta tạo ra những câu sai. Điều
đó chứng tỏ rằng các
cặp có/ kia, những/ thôi trái nhau
về hướng nghĩa. Chuỗi câu “Giá
quyển sách này 15 đồng thôi à? Rẻ quá!” chứng tỏ
rằng thôi cũng mang
định hướng nghĩa ÍT khi dùng trong
câu hỏi. Tương tự, trong các câu nói chung và
câu hỏi nói riêng, từ kia
mang định hướng nghĩa NHIỀU.
Theo nguyên lí tiết
kiệm trong ngôn ngữ, hai từ có và thôi
không thể đồng nhất với nhau về
nghĩa trong mọi trường hợp. Chính
vì vậy ta có thể dự đoán
rằng khi dùng trong những câu kiểu
tường thuật và những câu khác,
từ thôi sẽ mang
định hướng nghĩa khác. Có
thể thấy rằng định hướng
nghĩa này liên quan tới nghĩa “kết
thúc, dừng lại” của thực từ thôi đồng thời
vẫn có sự đánh giá ÍT.
Điều này được minh hoạ qua
các ví dụ sau:
(20) Tôi
nói vậy thôi, anh đừng lo.
(21) Anh
làm vậy thôi, làm
nữa thì ốm đấy.
(22) Biết
duyên mình, biết phận mình thế thôi (Truyện Kiều).
Nếu chúng ta nhìn
nhận rằng từ được
có nét nghĩa [thuận
lợi] thì do từ thôi
có nét nghĩa [ÍT] mà cấu trúc “Thôi được,
P” có nghĩa là “Điều P mà tôi nói
đây ở vào cái mức thấp của
sự thuận lợi”. Nói cách khác P
là mức thấp có thể chấp nhận
được và từ thôi đã chuyển sang thể hiện ý
chấp nhận thấp của người nói.
Trong khi đó ở cấu trúc “P được
thôi” từ thôi tác động
vào cả cụm “P được” nên tạo ra nghĩa “P
được” ở mức thấp, nghĩa là
người nói chấp
nhận rằng thực hiện được
P ở mức thấp.
Ví
dụ 2: Vì từ kia
định hướng nghĩa nhiều nên cấu
trúc “P kia đấy” có nghĩa sau: Theo quan điểm
của người nói thì điều P
được coi là cao, là có nhiều
giá trị so với đối tượng
được đề cập tới. Thông
thường người ta nói “Anh ta cũng
biết tiếng Anh kia
đấy” (nước ta vào năm 1984 c̣n ít người
biết tiếng Anh) nhưng ít khi người ta
nói “Anh ta cũng biết chữ kia đấy” bởi nước ta đă thanh toán
nạn mù chữ. Câu cuối cùng này chỉ
được coi là bình thường
nếu người ta quan niệm rằng “anh ta”
thuộc loại rất kém, còn trong tình
trạng tối tăm. Khi đứa bé nói “Con
ăn bánh cơ” (một biến thể của kia là cơ) thì có nghĩa là bánh
được đứa trẻ coi là
ở mức cao so với thứ khác
mà người ta định cho nó.
1.3. Những
định hướng nghĩa về sự
khẳng định, chấp nhận, đồng
tình, bác bỏ
Những hành vi
thường gặp nhất trong tương tác qua
lại là những hành vi khẳng
định, chấp nhận, đồng tình, bác
bỏ, hứa hẹn, thề bồi…
Vì những hành vi
ngôn ngữ này rất hay gặp nên những
cơ chế ngôn ngữ phản ánh chúng sẽ
rất ngắn gọn, rất đơn giản.
Vì các từ ngữ phản ánh các
hành vi rất khái quát này
được dùng rất nhiều nhưng lại
không gắn với một nội dung cụ
thể, một khái niệm cụ thể nào nên
các từ này dần dần đã
được “hư hoá”.
Chúng ta minh hoạ
những định hướng nghĩa này
qua những cơ chế ngôn ngữ gắn
với từ thì
và với một vài trạng ngữ.
1.3.1. Sự
bác bỏ: “P thì
có!”. Xét các câu:
(23) a.
Thừa một con thì có.
b. Mày xấu thì có.
c. [-
Tớ rất sợ ma] Ma sợ cậu th́ có.
Có
thể phân tích các câu trên theo 3 phương
diện: hiển ngôn, điều kiện dùng
(tức là tiền giả định của câu,
ở đó chỉ rõ ngữ cảnh
trước đó của câu), mục đích
và phương thức phát ngôn. Với câu
(23a) chúng ta có:
Hiển ngôn:
Thừa một con.
Điều
kiện dùng (TGĐ): Trước đó có
một phát ngôn Q mang nội dung đối lập
với P, đại để Q sẽ là “thiếu
một con”.
Mục
đích và phương thức: Bác bỏ Q
theo cách khẳng định ý kiến P của
mình.
Với
câu (23b) chúng ta có:
Hiển ngôn:
Mày xấu.
Điều
kiện dùng (TGĐ): Trước đó có
một phát ngôn Q mang nội dung đối lập
với P, đại để Q sẽ là “Nó
xấu” hoặc “Em xinh đấy chứ, chị
chỉ?”.
Mục
đích và phương thức: Bác bỏ Q
theo cách khẳng định ý kiến P của
mình.
Câu (23c) có hàm ư cậu không hề sợ ma.
Khái quát: Phát ngôn
“P thì có!” là một hành vi bác
bỏ. Hiển ngôn của câu
là P.
Điều
kiện dùng (TGĐ): Trước đó có
một phát ngôn Q mang nội dung đối lập
với P.
Mục
đích và phương thức: Bác bỏ Q
theo cách khẳng định P.
Lưu ý
về sắc thái: Có thể gặp
đoạn hội thoại (23c) nhưng không thể
gặp đoạn (23d).
(23c) – Anh
ấy dạy đại học.
-
Anh ấy dạy cấp 1
thì có!
(23d) - Anh
ấy dạy cấp 1.
-
*Anh ấy dạy đại
học thì có!
1.3.2. Sự
chấp nhận và đối đáp: (C̣n) y th́ không
(à?/chắc?)
Quan
sát đoạn hội thoại:
(24) – Nó
xấu quá!
- Mày (xấu) thì
có!
Vấn đề
đặt ra trong lời đáp này chỉ
là ai là người có thuộc tính
xấu mà thôi. Chính vì vậy mà trong lời
đáp có thể rút gọn đi thuộc
tính xấu: “Mày thì có”. Vậy lời
đối đáp “y thì có”, ở
đó y là một tên gọi, chỉ là một
trường hợp riêng của “P thì có”.
Đối
lập với cơ chế “y thì có” là
cơ chế “y thì không”. Nó được
hiểu như sau:
Hiển ngôn:
Chỉ nhắc tới tên gọi y.
Điều
kiện dùng (TGĐ): Có một phát ngôn P(x)
nói về thuộc tính p của x: “x thì p”.
Mục
đích và phương thức (»Lược
đồ nghĩa):
Người nói ngầm chấp nhận TGĐ (ý
kiến P(x) của người đối thoại),
nhưng lại cho rằng nói điều P(x) là vô
nghĩa vì rằng y cũng có thuộc
tính p. Thế nghĩa là phát ngôn “(c̣n) y thì
không (à/chắc)?” cốt để đánh giá cân
bằng giữa hai đối tượng x
và y và tạo ra hàm ư hai đối tượng là
như nhau thôi.
Lưu ư: không ai tự hỏi ḿnh để
phủ định. Nên ở cấu trúc trên y ¹
“tôi/chúng tôi” . Nếu y = tôi/chúng tôi, th́ câu chỉ c̣n là
tường thuật. Ví dụ: ‘Nó giỏi các môn tự
nhiên, c̣n tôi th́ không’ (suy ra:
tôi không giỏi)
1.3.3. Lối
nói không thành thật, hành vi nói đay
và nói dỗi: (Còn) y thì b!
Hành vi nói đay.
Quá trình hội thoại như sau:
(25) A: “x thì a”, ở
đó a mang nét nghĩa âm
tính [ - ].
B: “(Còn) y thì b!
(ở đó b đối lập với a,
vậy nó mang nét nghĩa dương tính [ + ]).
Đây là hành vi
nói đay, một lối nói không thành thật,
người đáp có một ngụ ý
và người nghe luôn luôn hiểu được
ngụ ý đó. Thật thế, khi A chê x là a,
còn người đáp B lại “khen” y là b, thì
rõ ràng là người đáp không
muốn làm ra sự đối lập giữa
x và y, bởi vì muốn thực hiện
sự đối lập người ta sẽ thêm
từ lại: “Còn y
lại b”. Do vậy người nghe hiểu ngay là
B có ngụ ý chê y: “y cũng a” như x thôi. Chỉ
cần nghe một người nói “Còn các
bà thì đẹp” là chúng ta biết
rằng trước đó các bà
này đã chê người khác là xấu
quá. Khi đay lại, người ta không bác
bỏ điều vừa nghe thấy, nghĩa là
người đáp chấp nhận điều
vừa được nghe, nhưng “đay” lại
rằng các bà cũng không hơn gì: (C̣n)
các bà thì đẹp! Tương tự, “Chuột
chù chê khỉ rằng hôi./ Khỉ mới trả lời
(c̣n) cả họ mày thơm.” (cd)
Lược đồnghĩa:Đây là HV khen giả tạo nhằm nói đay, tạo ra hàm ư mỉa
mai B: Đối tượng B cũng có thuộc tính X sao
c̣n chê A.
Hành vi nói dỗi.
Quá trình hội thoại như sau:
(26)
A: “x thì a”, ở đó a mang nét
nghĩa dương tính [ + ]
B: “(Còn) y thì b!
(ở đó b đối lập với a,
vậy nó mang nét nghĩa âm tính [ - ] và y
trỏ tập hợp mà B là thành viên trong
đó).
TGĐ: Có một phát ngôn khen x có thuộc tínha mang nét nghĩa dương tính [+].
Lược
đồnghĩa: Người
nghe là B hiểu ngầm rằng phát ngôn ở TGĐ có hàm ư
chê đối tượng y có thuộc tính b (đối lập
với a) mang nét nghĩa âm [ –], bèn
tự chê không thật ḷng tạo ra HV nói
dỗi.
Đây là hành vi
nói dỗi và cũng là một lối nói
không thành thật. Khi nghe A khen x có một thuộc tính tốt
a nào đó, B có thể hiểu ngầm là A
có ngụ ý chê mình và B đã phản ứng,
tự nhận mình có thuộc tính tiêu
cực, nhưng trong thâm tâm không hẳn nghĩ
như thế. Nó giống lối nói đay
ở chỗ cũng chấp nhận ý kiến
của người đối thoại, cũng
muốn cân bằng lại hai đối
tượng x và y. Tự chê mình một
cách không thành thật là một cách
khẳng định không mạnh mẽ mặt
tích cực của mình. Vài ví dụ:
(27) A đi
với người yêu là B:
A: Cô này xinh
quá. Cả cô kia nữa!
B: Vâng,
(còn) em thì xấu thôi!
(28) Chồng: Thằng X may
thế, vớ được cô vợ vừa đảm lại
vừa xinh.
Vợ: Vâng, tôi biết, th́ chỉ có mẹ
sề nhà ông là vừa đoảng lại vừa xấu
thôi.
1.3.4. Hành
vi bổ sung (lư lẽ, chứng cứ):
“Hơn nữa, P”.
Xét câu 29:
(29)
Hơn nữa, giá quyển sách này có 15
đồng.
Người ta chỉ
nói “hơn nữa P” khi trước đó
đã có một phát ngôn Q nhằm nêu lư lẽ,
chứng minh cho một điều gì đó,
người đáp đã đồng tình
và chấp nhận phát ngôn Q, cũng có thể chính
người nói muốn bổ sung, họ nêu thêm P như
là một chứng cứ, một lư lẽ
bổ sung cho Q. Vậy Q và P sẽ cộng
hướng nghĩa lư lẽ cho một lập luận.
Nếu như P và Q trái trái định
hướng nghĩa lập luận với nhau th́
phát ngôn “Hơn nữa, P” trở thành không
chuẩn xác, tức là không phù hợp
với tình huống giao tiếp. Trong câu (29)
đã có sự đánh giá rẻ
về giá sách. Thông thường, đây
được coi là sự đánh giá
tốt. Trong trường hợp này, chúng
ta có thể hình dung ra phát ngôn Q
trước đó cũng là một sự
đánh giá tốt, như “Quyển sách này
rất hay”, “Quyển sách này rất có giá
trị”…Nếu trong một cảnh huống đặc
biệt, giá rẻ được coi là không
tốt thì hướng nghĩa của phát ngôn
Q trước đó cũng phải là
sự đánh giá không tốt về quyển
sách. Xét các câu:
(30) a. Không
nên mua quyển sách này làm quà
cưới. Nội dung rất xoàng [/*hay] .Hơn
nữa, giá quyển sách này có 15
đồng.
b.
Nên mua quyển sách này làm quà
cưới. Nội dung rất hay [/*xoàng]. Hơn
nữa, quyển sách này có 15 đồng.
Quá trình cộng hướng
nghĩa lư lẽ xảy ra như sau: Làm quà
cưới người ta có khuynh
hướng tặng những vật gì
có giá trị và sang trọng. Nếu một
người cho rằng không nên dùng một
vật ít tiền và ít giá trị làm
quà cưới thì trong (30a) phải dùng
từ xoàng
chứ không thể dùng từ hay, có như vậy mới có
sự cộng hướng lư lẽ giữa nội
dung xoàng với
giá tiền ít. Tuy
nhiên, nếu một người cho rằng dùng
làm quà cưới chỉ cốt ở
cái gì tốt và có ý nghĩa, còn
giá tiền không quan trọng, rẻ được
bao nhiêu hay bấy nhiêu thì trong câu (30b) phải dùng
từ hay mới
thích hợp, mới có sự cộng
hướng nghĩa lư lẽ giữa hay và rẻ.
(31) (Lời
b́nh luận của một số sinh viên trường
ĐHTH về một đề tài luận văn năm
1978)
A:
- Có mỗi từ MÀ mà cũng là một đề tài luận
văn.
B:
- Mà nào có khó.
C:
- Hơn nữa hay ǵ mà hay.
D:
- Ấy thế mà…”
Trong đoạn thoại trên,
sinh viên A đă chê đề tài luận văn. Sinh viên B chê
tiếp. Trong tiếng Việt,
từ “nữa” biểu thị
“sự gia tăng về mức độ, cường
độ của hoạt động, trạng thái, tính chất”
[82], biểu thị “ư bổ sung về số lượng,
phải thêm một khoản hay một khoảng nào đó.
[82], là “từ dùng để nhấn mạnh ư tăng cường,
tiếp thêm” [82]. Chính v́ những
ư nghĩa này của từ nữa
mà phát ngôn “Hơn nữa, P” của sinh viên C
trở thành một hành vi bổ sung lư lẽ
cho một lập luận. Phát ngôn “Ấy thế mà…” thể
hiện quan điểm ngược lại (x.
§2.5.4.chương 3) của sinh viên D.
1.3.5. Hành
vi giải thích: “P
mà lại”. Hành vi này được phân
tích như sau:
Hiển ngôn:
P
Điều
kiện dùng (TGĐ): Trước đó có
một phát ngôn Q. Theo quan điểm của
người đáp, điều Q này là
đúng là tất yếu v́ nó là hệ
quả của P.
Mục
đích và phương thức (lược
đồ nghĩa): Nói P để giải thích Q.
Vậy “P
mà lại” là một hành vi giải thích.
Ví dụ:
(31) – Bài
này hay quá!
- Học sinh giỏi văn
mà lại!
(32) –
Việc ấy mà giám đốc cũng chịu à?
- Thủ kho to hơn thủ
trưởng mà lại !
Lưu ý:
1) Trong tiếng Việt có cấu trúc “P mà lại Q” như “Đã bảo không
đói mà lại cứ ép ăn”. Trong
một số trường hợp có thể
rút gọn Q và ta chỉ còn “P mà lại”
như “Đã bảo không đói mà lại”,
lúc này vẫn có thể coi “P mà lại”
là một hành vi giải thích cho một
điều nào đấy. “Đã bảo không
đói mà lại” là một hành vi giải
thích cho điều không muốn ăn, từ
chối lời mời ăn… 2) Trong phương ngữ
Nam Bộ, cấu trúc này được rút gọn thành “P mà.”
1.4. Định hướng
nghĩa về sự bày tỏ thái độ
1.4.1. Trong giao tiếp, ngoài
những hành vi bác bỏ, đồng tình
với người đối thoại vừa
trình bày, chúng ta còn gặp những
hành vi bày tỏ những thái độ
khác nữa: chê trách, biết ơn, kính
nể, phục tùng, bất phục, hài lòng,
không hài lòng, thân mật, khinh khi…Ngoài các
động từ ngữ vi thể hiện
những hành vi này, cơ chế ngôn ngữ
thể hiện chúng như thế nào?
Vì tính tế nhị
trong giao tiếp, để biểu thị một thái
độ nào đó, người ta có
thể dùng một cách quy ước, theo một
“lô gích” nhất định, một kiểu tổ
hợp từ nhất định mà lâu dần
chúng ta không thấy được dấu vết
qui ước và tổ hợp từ
đó được coi là mang tính
thành ngữ, có tính “võ đoán”.
Chúng tôi thử trình bày phương
pháp phân tích tổ hợp từ biểu
thị thái độ “không hài lòng” nhằm
minh hoạ cho khả năng tìm thấy tính có
lư do của những tổ hợp từ
bày tỏ thái độ và mang tính
thành ngữ.
1.4.2.
Khi chúng ta đang không hài lòng về một
điều gì đó và trong lời của
người đối thoại có nhắc
tới từ a,
chẳng hạn ăn,
cơm, cuốc, gì, sao,…chúng ta bực
mình và nói “ăn với chả uống”,
“cơm mấy chả cháo”, “cuốc với chả
cầy”, “dì mấy chả dượng”, “sao
mấy chả trăng”…
Vì sao lối nói trên
đây lại được dùng để bày
tỏ thái độ không hài lòng?
Về mặt hình
thức, lối nói trên đây có dạng
(33)
“A với chả B” hoặc biến thể khẩu
ngữ “A mấy chả B”, ở đây A-B là
một từ, một tổ hợp từ
hoặc hai từ rất gần nghĩa về
một phương diện nào đó:
ăn-uống, cơm-cháo, cuốc-cày,
dì-dượng, sao-trăng,…Về nghĩa, cấu
trúc bày tỏ thái độ không hài lòng
của người nói và A là điều
bề ngoài mà người nói biểu
thị thái độ trực tiếp không hài
lòng nào đó.
1.4.3.
Con đường dẫn tới cấu trúc (33)
như sau:
Trong
lôgic có luật cấm mâu thuẫn. Luật đó
phát biểu rằng phán đoán “A và
không A” là mâu thuẫn. Nói khác đi, “A và
không A”, “A và chẳng A” là một điều vô nghĩa. Từ
đó, có A hay chẳng có A cũng thế
thôi, và chúng ta đi tới cơ chế lôgic
biểu thị thái độ không hài lòng:
(34) A và
chẳng A
Từ cơ
chế lôgic (34) đi tới dạng thức ngôn
ngữ (33) như thế nào?
Một
mặt, biến thể của chẳng là chả,
mặt khác, từ với
cũng được dùng để nối hai
yếu tố
đẳng lập, nếu chúng ta tìm
được một từ B rất gần
nghĩa với từ A về một phương
diện nào đó, như cơm và cháo,
quần và áo, gio và trấu…thì cặp
A-B này biểu thị một phạm trù chung
nhất định. Trong ngôn ngữ thường có
khuynh hướng tránh lặp lại, vì
thế trong cấu trúc (34), người ta
thường dùng từ B để thay cho
từ A thứ hai.Tới đây, dạng
thức lôgic “A và chẳng A” sẽ có dạng
thức ngôn ngữ là “A với chả B”
là một dạng của (33).Trong khẩu ngữ,
biến thể khẩu ngữ của với là mấy,
vì vậy chúng ta cũng có lối nói “A
mấy chả B”.
Ví dụ: Khi X làm
một điều gì đó và Y không hài
lòng: X bèn thanh minh và nói “lư do là…”, lúc đó Y có thể
bày tỏ thái độ không hài lòng, “không
tin vào lư do mà X nêu bằng cách nói “Lư gio mấy chả lư trấu”.
Lưu ý: Có một
sự phân biệt tế nhị giữa cấu trúc
(33) với cấu trúc “A mấy B”. Trong kết cấu
sau, người ta trực
tiếp phản ứng, bày tỏ thái
độ không hài lòng vào A. Nếu A là
một hành động thì đó là
sự phản ứng về hành động,
như đi với
đứng, khóc
với mếu; nếu A là sự vật
thì đó là sự phản ứng, chê
trách sự vật. Nếu tàu hoả chạy
quá chậm giờ, chúng ta có thể
nói “tàu với xe”. Còn trong (33),
người ta có thể biểu thị thái
độ không hài lòng thông
qua từ A, như “lư gio
mấy chả lư trấu”.Ở
đây không trực tiếp phản ứng về
chuyện gio, trấu như trong “gio với trấu”.
2. Lô gích và sắc thái liên
từ tiếng Việt[2]
Trong lô gích có những tác tử
lô gích (liên từ lôgích) tương ứng với các liên từ
trong ngôn ngữ tự nhiên như tiếng Việt hoặc
tiếng Anh. Đó là các tác tử: phép phủ định ~ được đọc là “không”/ “not”;
phép hội Ù
được đọc là “và”/ “and”); phép tuyển Ú được đọc là “hay”, “hoặc”
/ “or”; phép kéo theõ
được đọc là “nếu … th́”/ “if...then”. Tuy
nhiên, giữa các liên từ ngôn ngữ và các tác tử lô gích
có những khác biệt đáng lưu ư. Trước hết
chúng ta nêu những công thức về tác tử lô gích [25] có
nhiều liên quan tới những liên từ trong ngôn ngữ
tự nhiên:
Tính
chất phân phối giữa phép tuyển và phép hội :
aÚ (b /\ c) = (a Ú b) /\ (a Ú c)
(2.2.5a)
a /\ (b Ú c) = (a /\ b) Ú (a /\ c) (2.2.5b)
Phép phủ định của
một hội và một tuyển (quy tắc De Morgan):
~ (a /\ b) = (~ a) Ú (~ b) (2.2.6a)
~ (a Ú b) = (~ a) /\ (~ b) (2.2.6b)
Phép kéo theo:
(ã b) = [(~ b) ̃ (~ a)] (2.2.8b)
(ã b) = (~ a) Ú b (2.2.8e)
= ~ [a /\ (~ b)] (2.2.8g)
Chúng ta sẽ minh họa những
sự giống nhau và khác biệt giữa liên từ lô gích
và liên từ trong ngôn ngữ tự nhiên qua một số ví
dụ tiếng Việt và tiếng
Anh.
2.1. Liên từ và và tác tử lô gích Ù . Liên hệ với liên từ and của tiếng Anh.
2.1.1. Một
số cách diễn đạt gần như tương
đương với VÀ, AND
Ngoài hai
liên từ “và”, “and” trong tiếng Việt và tiếng Anh c̣n
có nhiều từ ngữ khác để diễn đạt
một cách logic hai sự kiện A và B đồng thời xảy ra, nghĩa là chúng có
quan hệ hội A Ù B
nhưng với những sắc thái nghĩa khác nhau. V́
vậy chúng gần như tương đương
với và, and.
§ Khẳng định: Cả A cả [/lẫn] B » vừa A vừa B »Both A and B
(1)
Trước
mặt tôi trường Mỹ Lư trông vừa xinh xắn
vừa oai nghiêm như cái đ́nh làng Hoà Ấp. (Thanh
Tịnh, Tôi đi học)
(2)
Cả giám
đốc, cả mấy nhân viên trong pḥng đều giúp
đỡ cô ấy.
(3)
Cả ông bà
cả cha mẹ cô ấy đều giàu.
(4)
Both Ba
and Peter damaged the furniture. »Cả Ba lẫn
Peter đều làm hỏng
bàn ghế.
(5)
She is both beautiful and kind. » Cô ấy vừa đẹp vừa hiền.
§ Phủ
định: Cả A
lẫn B đều không » Neither A norB
(6)
Cả Ba lẫn Năm đều không
làm hỏng bàn ghế. »Neither Ba nor Năm damaged the furniture.
§ Không chỉA mà c̣n
B »chẳng những
A mà c̣n B
§ Not only A but also B » A as well as B
(7) Anh
ấy chẳng những
đẹp trai mà c̣n giàu có.
§ BUT /
NHƯNG, CHỨ và các quan hệ ngược hướng
ngữ nghĩa
(8)
When I was a small girl like you, Lucy, I was always
given either bread and butter or bread and jam, but never bread with butter and jam. » “Liên này, hồi c̣n
nhỏ bằng con bây giờ, mẹ luôn luôn chỉ
được cho có bánh ḿ vớibơ
hoặc bánh ḿ với
mứt thôi, chứ chưa
bao giờ được cho bánh ḿ với bơ và mứt
đâu.
(9)
I’m very sorry
for being so late, but my car has
broken down three times on the way here. »
Tôi xin lỗi đă đến quá trễ, v́ [/*nhưng] trên đường
tới đây xe tôi bị hỏng đến ba lần.
Tuy nhiên,
trong một số trường hợp hai liên từ mà,nhưng có thể dùng như
liên từ và.Điều này
c̣n tùy theo quan niệm của từng người liên quan
đến đặc điểm ngữ dụng khi dùng
chúng. Ví dụ nếu coi hai thuộc tính nghèo và thân thiện
thường không đi đôi với nhau thậm chí
ngược hướng nhau th́ ta sử dụng từ
“nhưng”. C̣n như nếu quan niệm nghèo và thân thiện
đi đôi với nhau th́ lại dùng từ “và”.Ví dụ:
(10) Cô ta nghèo
nhưng thân thiện.
(11) Cô ta nghèo
và thân thiện.
Như
vậy yếu tố dụng
học góp phần xác định các mối quan hệ
ngữ nghĩa do từ nối đem lại.
§ Trong khi A
th́ B
(12)
Bây
giờ Liên vội vàng vào thắp đèn, xếp
những quả sơn đen lại, trong lúc An đi t́m
then để cài cửa cho chắc chắn (TL, Hai đứa trẻ)
(13)
Trong khi
tôi nấu cơm th́ chồng
tôi giặt quần áo.
Câu
đầu được hiểu như sau: Bây giờ Liên
vội vàng vào thắp đèn, xếp những quả
sơn đen lại vàAn
đi t́m then để cài cửa cho chắc chắn.
§ Ngoài A
c̣n B.
§ Để trỏ định hướng
nghĩa khác nhau giữa A và B c̣n có cấu trúc A th́ x c̣n B th́ y.
(14) Tôi (th́)
làm việc c̣n nó (th́) hát
karaoké.
(15) Tôi
sống ở thành thị c̣n
hắn sống ở nông thôn. » I live in town and
he lives in the country.
(16) He looked very angry and a shade come over Ernest’s face (Samuel Butler). » Ông ta rất bực tức c̣n Ernest th́ lộ vẻ lo lắng.
(17) My wife makes all the small decisions, and I make all the big ones…» Bà nhà tôi quyết định những vấn đề nhỏ, c̣n tôi th́ quyết định tất cả những vấn đề trọng đại…
(18) Thằng
c̣ng làm c̣n thằng ngay
ăn.(TN) » One beat
the bushes and another catches the
bird. (TN)
§ A
đồng thời B; Vừa là
A vừa là B
§ Cùng với A
c̣n (có) B
§
Dấu phẩy
(19)
Chữ ông
Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (NT). » Chữ ông Huấn Cao đẹp
lắm và (chữ ông
Huấn Cao) vuông lắm.
(20)
Learn, learn and learn »
Học, học nữa, học măi
(21)
And
then he screamed and kicked and ran to his father and told him that I was fighting him (H.B. Stowe) »Rồi th́ hắn kêu, hắn đá, hắn
chạy đến mách bố hắn là tôi đánh hắn.
Những câu trên đều biểu
hiện quan hệ hội (A Ù B) giữa hai mệnh đề A và B.
Tuy nhiên những cách diễn đạt trên c̣n thể hiện
những kiểu liên hệ về
ư nghĩa khác nhau giữa hai sự kiện A, B mà điều này (liên hệ ư
nghĩa) không được quan tâm trong lôgích mệnh đề.
Tức là bên cạnh chức năng logic tạo ra h́nh thức
liên kết ngữ pháp đẳng lập c̣n có chức
năng ngữ nghĩa.
2.1.2. Trong tiếng Việt, từ và nêu quan hệ liên hội
đẳng lập giữa hai thành phần ngôn ngữ,
nhưng trong lời nói do trật tự tuyến tính và
yếu tố dụng học mà nhiều trường
hợp cấu trúc “A và B” c̣n kèm theo những sắc thái
nghĩa khác nhau. Lúc đó, nhiều phép hội trong lô gích
mệnh đề không c̣n đúng với câu ghép, thậm chí
cả câu đơn dùng từ “và” nữa.
Quan
hệ đồng thời:
(22) To love and to be loved is the greatest
happiness on the earth ( Shakespeare)
»“Yêu và
được yêu là niềm hạnh phúc lớn nhất
trên đời.
(23) We can and will succed. » Chúng ta có thể và
nhất định sẽ thành công.
(24) Early to
bed and early to rise makes a man
healthy, wealthy and wise (TN) » Ngủ sớm và dậy sớm làm cho
người ta khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan.
(25) My friend and associate» Người bạn
và là cộng sự của tôi.
Quan
hệ liên tiếp:
(26) Bát cháo húp xong rồi, thị Nở
đỡ lấy bát cháo và múc
thêm bát nữa (NC).
(27) He walked into the house and up the stairs. »
Anh ta đi vào nhà rồi lên
lầu.
(28) As a small boy, a grow man, and a senile invalid, he
had always looked at the gloomy side of life. »
Khi c̣n là một đứa trẻ nhỏ, rồi khi
trở thành người lớn, và cho đến khi là
người già tàn phế, anh ta luôn luôn nh́n cuộc
đời tối tăm.
(29) Miles and
miles »Hết dặm này đến
dặm khác
Sự
liên tiếp có thể xảy ra nhiều lần:
(30) Some books
are to be tasted, others to be swallowed, and
some few to be chewed and digested. (
F. Bacon) » Một vài quyển
sách th́ lướt qua (¬nếm
thử), những quyển khác th́ đọc (¬nuốt), và một
số ít th́ nghiền ngẫm (¬nhai) và tiêu hóa.
Giữa
hai sự kiện này thường có quan hệ ư nghĩa nào
đó khiến chúng không thể đảo ngược
trật tự:
(31) We investigated the problem
and discovered that it was more complex than we had expected. »Chúng tôi
t́m hiểu vấn đề và phát hiện rằng nó
phức tạp hơn chúng tôi tưởng.
(32) He fell into a deep sleep and dreamed that he was flying.» Anh ta
ngủ say và mơ thấy
ḿnh đang bay.
Thường gặp nhất là
quan hệ nhân quả, điều kiện kết quả,
sự kiện trước là nguyên nhân dẫn đến
sự kiện sau:
(33) Tôi biết
anh gặp chuyện buồn và hỏi thăm anh. ¹
(34) Tôi hỏi thăm anh và biết anh
gặp chuyện buồn.
(35) Tên cai
bước tới và tôi cứ lùi
(BĐA). ¹
(36) Tôi cứ lùi và tên cai bước
tới.
Những
câu trong từng cặp (33,34), (35,36) trên đây nghĩa khác hẳn
nhau.
(37)
Thoạt đầu phục tài nhau, sau đó đi
lại chơi bời và trở nên thân thiết.
(38)
Nhưng một đêm mùa đông rét mướt kia,
chẳng biết run rẩy thế nào, lăo già ngă xuống
sông và chết ở dưới sông (NC).
Hai
sự kiện trong câu (38) không đồng thời xảy
ra mà theo thứ tự thời gian ngă rồi mới
chết. Nhưng nếu đảo lại “lăo già chết
và ngă xuống sông” th́ quan hệ lô gích lại theo thứ
tự là chết rồi mới ngă như Từ Hải
chết đứng, chỉ khi Thúy Kiều chạm tay vào
mới chịu ngă xuống.
Những
ví dụ trên đây cũng cho thấy thứ tự có tầm
quan trọng đặc biệt khi hai vế liên kết với
nhau qua từ và.Nó thể hiện
quan điểm, tư tưởng của người nói.
Lời
tự thuật của Vedi, nhạc sĩ người Ư nổi
tiếng như sau:
(39) Năm 20 tuổi, tôi chỉ nói tới
tôi.
Năm 30 tuổi, tôi nói tôi và Mozart.
Năm 40 tuổi, tôi nói Mozart và tôi.
Năm 50 tuổi, tôi chỉ c̣n nói
tới Mozart.
Ví
dụ trên đây cho thấy quá tŕnh chuyển biến nhận
thức khi tự đánh giá ḿnh ngày càng khiêm tốn hơn của
nhạc sĩ Vedi.Năm 20 tuổi th́ ông ta là số 1, ngoài
ra chẳng c̣n ai.Năm 30 tuổi nhận ra có thêm Mozart
nhưng vẫn ở hạng dưới [“tôi và Mozart”]. Năm
40 tuổi mới thay đổi quan điểm: Mozart tài
năng hơn ḿnh [“Mozart và tôi”].
(40) Trên báo Thanh Nghị có lần một
biên tập viên viết bài “Học thuật và hành
động” nhằm tách rời và đối lập
giữa biết và làm. Đặng Thai Mai viết bài “Hành
động và học thuật”. Chỉ đảo trật
tự từ giữa hai tiêu đề cũng đủ
thấy quan điểm đối lập nhau: Hành
động và học thuật bao giờ cũng phải
đi đôi với nhau, bổ sung cho nhau.
Một
khi “A và B”, “A and B” biểu hiện quan hệ nhân quả
nghĩa là A dẫn tới kết quả B th́ đó có
thể là một lời b́nh.
(41) They didn’t like Ba – and that not
surprising. »Họ
không thích Ba – và điều đó chẳng có ǵ đáng
ngạc nhiên.
Trong
tiếng Việt có thể dùng từ rồi để kết nối nguyên nhân và
kết quả mà vẫn nhấn mạnh tới trật
tự thời gian. Do tương hợp nghĩa với và khiếncụm từ và rồi cũng có thể dùng
để nối nguyên nhân và kết quả. Tương
tự, cụm từ and
therefore, and then trong tiếng Anh cũng có thể dùng
để kết nối nguyên nhân và kết quả.Nhưng
từ and nhấn mạnh
tới trật tự thời gian c̣n từ và th́ không. Do vậy, trong cụm từ và rồi thường
lược bớt từ và c̣n
trong and therefore, and then thường
lược bớt therefore,
then. Hiện tượng này có thể được
giải thích: quy luật vơ đoán của ngôn ngữ cho
thấy sau một thời gian sử dụng như and so, and therefore, and then … đă tạo ra một thói quen
cảm nhận ngôn ngữ rằng trong and có so, có therefore, có then … nên ư nghĩa của so, therefore, then … chuyển vào and. Ví dụ:
(42) Work hard and you will succed » Hăy làm việc cật lực rồi anh sẽ thành công.
(43) Take care of the pence and the pounds will take care of. (TN) »Hăy dành dụm
từng xu rồi sẽ
thành hào thành đồng » Năng nhặt (rồi
sẽ)chặt bị (TN).
(44) Give me some money and (then) I’ll help you escape. »Hăy đưa tôi
tiền, rồi tôi sẽ
giúp ông trốn thoát.
(45) He heard an explosion and (therefore) he phoned the police. » Anh ta nghe tiếng
nổ nên gọi
điện thoại cho cảnh sát.
Hai
sự kiện có định hướng ngữ nghĩa
ngược nhau về một phương diện nào
đó có thể đồng thời xảy ra.Để
biểu hiện quan hệ này, lúc đó chúng ta thường
dùng những cấu trúc nghịch nhân quả trong tiếng
Việt và các liên từ tương phản (contrary) trong
tiếng Anh.
Hai liên
từ “nhưng” và “mà” trỏ quan hệ nghịch nhân
quả [§2. và §3. chương 3] nên trong nhiều t́nh
huống chúng biểu thị quan hệ ngược
hướng ngữ nghĩa.
Ở
tiếng Việt là các cấu trúc
(tuy) A nhưng B; Đă A mà vẫn B;
Mới A mà đă B
Ở
tiếng Anh là các cấu trúc: » A but B;A
and ( in contrast/yet ) B
Trong
những cấu trúc trên, thuộc tính của hai đối
tượng A và B luôn luôn có định hướng
nghĩa tương phản, trái ngược nhau về
một phương diện nào đó.
(46)
Thuở
nhỏ tôi cũng được đi học như thím nhưng tôi chỉ học
đến quyển Hiếu kinh th́ thôi (NTT).
(47)
Có khoảng 35 ngh́n loài nhện nhưng
chỉ có khoảng 10 loài sống theo tập thể.
(48)
Ông hiệu trưởng muốn trả
lương Điền bằng tiền mặt nhưng
lại không có tiền để trả (NC).
(49)
Anh chồng th́ hiền mà cô vợ lại nổi tiếng đanh đá.
(50)
Thời bấy giờ có một công chúa
tên là Tiên Dung, công chúa xinh đẹp tuyệt trần
tuổi đă 18 màvẫn chưa lấy
chồng (KTCCTVN).
(51)
Anh ấy không chuyên cần nhưng rất thông minh.
(52)
Chàng đưa tay ra bế con nhưng đứa bé không
chịu ( KTCCTVN).
(53)
Tuy cô
ấy bận nhưng cô
ấy vẫn viết thư đều cho tôi.
(54)
Ba học rất giỏi nhưng anh hắn th́
không. » Ba studied
very well but his brother didn’t.
(55)
Anh ấy giầu mà cũng khiêm tốn.
(56)
Bệnh nhân không đi được mà cũng không nói
được.
(57)
Cảnh buồn mà ḷng vui (TH ).
(58)
I’ve spent weeks doing this report, but [/and] they won’t accept it becauce
of the typos.»Tôi
mất hàng tuần để làm cái báo cáo này nhưng v́ lỗi đánh máy mà
không được duyệt.
(59)
Robert is secretive and (in contrast) David is candid. » Robert th́ kín đáo c̣n David
th́ lại bộc trực.
(60)
He tried hard and
(yet) he failed. » Anh ta
chăm học mà lại thi
hỏng.
Trong những cấu trúc “A mà(cũng/lại) B”; “A but also B”,
sự xuất hiện của hai từ cũng, also tạo ra nghĩa đối chiếu
khiến cấu trúc này dường như mất đi
nghĩa “A, B định hướng nghĩa trái
ngược nhau”. V́ vậy lúc này có thể dùng từ và, and thay cho mà, but:
(61)
I like classical music, but I also like Jazz. ® I like classical music, and I also like Jazz. » Tôi thích
nhạc cổ điển, nhưng
tôi cũng thích nhạc Jazz. ® Tôi thích nhạc
cổ điển, và tôi cũng thích nhạc Jazz.
Lưu
ư: Trong cấu trúc “A nhưng B”,
“A but B”, mặc dù A và B xảy
ra đồng thời nhưng nghĩa của cấu trúc
này luôn luôn theo định hướng ngữ nghĩa của B. V́ vậy, đây là cấu
trúc luôn luôn có hàm ư. Có thể dùng để lập luận.
Ví dụ:
Phó
tổng giám đốc phụ trách tổ chức:
(62)
Anh X rất
giỏi chuyên môn nhưng lư
lịch có vấn đề. V́ vậy không thể
đề bạt làm giám đốc điều hành
được
Phó
tổng giám đốc phụ trách chuyên môn:
(63)
Anh X có
vấn đề về lư lịch nhưng rất giỏi chuyên môn. V́ vậy vẫn
có thể đề bạt làm giám đốc điều
hành được.
(64)
She is beautiful
but dumb. » Cô ta đẹp nhưng điếc. (V́ vậy, không thể làm
diễn viên kịch được.)
(65)
She is beautiful
but poor. » Cô ta đẹp nhưng nghèo. (V́ vậy, không nên lấy cô ấy.)
(66)
He works quickly
but accurately. » Anh ta làm nhanh nhưng chính xác. (Loại người này rất
cần cho công ty chúng ta)
(67)
Thời gian
trôi qua, nhưng ḷng căm
thù, oán giận không phai giảm. [V́ vậy] Hằng năm,
khi đă củng cố đủ sức lực, Thủy
Tinh lại dâng nước lên tấn công Sơn Tinh (KTCCTVN).
»Time passed, but his hatred and resentment did not
diminish and when his strength was renewed he attacked once more.
(68)
To be a poor man
is hard, but to be a poor race in a land of dollars is the very bottom of
hardships. » Cam chịu thân phận của một
kẻ nghèo đă là
điều bất hạnh, nhưngcả
một bộ tộc cũng cam chịu nghèo khổ ngay trên
mảnh đất đầy phú quí giàu sang th́ quả là [bộ tộc]
đang ở dưới đáy sâu của thung lũng
đau thương.
b) Con
người có thể dùng phương thức thứ tự
qua từ “và” để thể hiện quan điểm của
ḿnh.
(69)
Chúng ta phải đem Ivan ra khỏi hồ và tách rời nó
với Bessie.
-
Cô muốn
nói là chúng ta phải đem Bessie ra khỏi hồ và tách
rời nó với Ivan chứ? Dù sao th́ chính Ivan mới là
đối tượng chúng ta quan tâm kia mà.
-
Đúng là tôi
định nói thế. […] Xin lỗi, tôi đă đảo
ngược tên của chúng. (CDCH,134)
Cần nh́n nhận quan hệ
nhân quả giữa hai vế một cách sâu xa. Có thể xảy
ra trường hợp vế đầu dẫn tới một
điều trung gian, nó mới là nguyên nhân của vế sau:
(70)
Anh nghe
tiếng hát sai lạc và bỗng nhớ nhà.
Không bỗng nhiên mà một anh bộ
đội phục viên về công tác ở một cơ quan
huyện vắng lặng bỗng nhớ nhà.Tiếng hát sai
lạc trong đêm gây ra sự buồn chân. Chính điều
này khiến anh ta nhớ quê hương, nơi anh có bao nhiêu
kỷ niệm về những lời mẹ ru, những
lời hát ví, hát giao duyên…trong những ngày lao động,
hội hè…
c) Liên từ “và” cũng được
dùng để liệt kê sự vật.
(71)
Thi ngoại
ngữ đạt loại khá và giỏi sẽ
được cộng thêm điểm.
(72)
Tổ
chức Đảng được lập ra theo đơn
vị hành chính và đơn vị sản xuất hoặc
công tác. (ĐL)
Hai câu trên có ư nghĩa của một phán
đoán tuyển.Phán đoán tuyển đúng nếu có ít
nhất một phán đoán thành phần là đúng.V́ vậy
trong hai câu trên có thể dùng liên từ hay, hoặc thay cho từ và.
Thay cho
việc liệt kê tỉ mỉ, người ta có thể
liệt kê theo cách liên kết hai
yếu tố đối lập để trỏ tổng thể của một
sự vật, một hiện tượng.
(73)
Dữ
dội và dịu êm/Ồn ào
và lặng lẽ (XQ)
(74)
Anh là mặt
trời của em, là […] cuộc sống của em và cái chết của em.
(QLCMĐ,119)
(75)
Em yêu anh
đúng như con người thật của anh, sôi nổi
và chóng quên, tận tâm và
phụ bạc (NHDAT,360)
d) Sự phù
hợp nghĩa giữa hai vế trong cấu trúc “A và B”
Quan sát các câu sau:
(76) a. Ba là
cô gái trung thực và hiền lành.
b. Ba là cô gái trung thực và sắc
sảo.
c.??Ba
là cô gái trung thực và láu cá.
d. *Ba
là cô gái trung thực và thâm hiểm.
e. *Ba
là cô gái trung thực và giảo quyệt.
Các câu trên có cùng một cấu trúc cú
pháp, cùng những từ ngữ đứng trước
từ và, chúng chỉ khác
nhau ở một từ đứng sau từ và.Vậy mà chỉ có hai câu
đầu là b́nh thường c̣n hai câu cuối không thể
chấp nhận được.Riêng câu thứ ba đáng
nghi ngờ về tính chuẩn mực. Chỉ có thể
giải thích hiện tượng trên nếu chúng ta chấp
nhận giả thuyết sau: Trong
cấu trúc A và B, từ và đ̣i hỏi sự phù hợp
về nghĩa giữa A và B, đồng thời giữa A
và B cũng không có những định hướng nghĩa
trái ngược nhau.
Trung thực là thuộc tính của
một người tốt c̣n giảo quyệt, thâm
hiểm là thuộc tính của một người
xấu.B́nh thường, một người tốt th́
không thể có thuộc tính của một người
xấu và ngược lại. Chính v́ hai thuộc tính
đối lập nhau, trung thực và giảo quyệt,
trung thực và thâm hiểm không thể đồng thời
tồn tại có trong một người tốt hoặc
một người xấu cho
nên hai câu (76d) và (76e) mới không được chấp
nhận. Tuy nhiên, với một người b́nh
thường có mặt tốt, có mặt xấu hoặc
một người tốt có lúc phải chấp nhận
cái xấu hoặc một người xấu có lúc lại
có những cử chỉ đẹp, hành động
đẹp, rồi lại có những t́nh huống dẫn
tới đồng thời có cả hai thuộc tính mâu
thuẫn nhau th́ câu “A và B” vẫn có thể chấp nhận
được dù ở đó A và B là những thuộc tính
mâu thuẫn nhau. Hoặc như:
(77)
Anh ta rơi vào nghịch cảnh: nhiều tiền và ít bạn.
(78)
Ba là cô gái đầy mâu thuẫn, nhiều lúc rất trung thực,
và nhiều lúc rất giảo quyệt.
Nếu
có tín hiệu báo trước hoặc giải thích sự mâu
thuẫn, không b́nh thường về ngữ nghĩa
giữa hai vế của
cấu trúc “A và B” th́ chúng ta có thể chấp nhận
sự không phù hợp, không tương hợp về
ngữ nghĩa này.
e) Khái quát
Chúng ta chỉ chấp nhận
được cấu trúc “A n
B”, ở đó n =và /
vừa…vừa / cả…lẫn/ cũng như / đồng
thời … nếu như A, B
hoặc hàm ư của chúng có sự phù hợp nhau về
nghĩa. Cố t́nh vi phạm sự tương hợp
về nghĩa theo một thủ pháp bất ngờ là
một phương thức để tạo ra câu có hàm ư,
những câu châm biếm, v́ trọng tâm thông báo rơi vào
điểm cố t́nh vi phạm để tạo ra
bất ngờ đó. Ví dụ:
(79) Nhiều anh trai làng thấy cô có
sắc lại có vốn, muốn hỏi cô làm vợ
để được cưới cả cô lẫn cái
vốn của cô (NC).
(80) Rồi đùng một cái, Trinh lấy
một người ngoại quốc nhiều tiền và nhiều
tuổi mới gặp Trinh vài lần (NC).
(81)
Ông nói xong, cười gịn tan, mở bộ mành mành mồm
cong lên, để hở hàm răng màu không tên là kết quả
của những phen vừa ăn trầu, vừa hút thuốc
lá, vừa nói khoác (NCH).
(82) Họ thuộc loại phụ nữ
chuyên dự các cuộc hội thảo khoa học và văn
chương (TT II,62).
V́ sao câu (82) là cách nói châm biếm?Ngày nay
mỗi lĩnh vực khoa học cũng như văn
chương đều đ̣i hỏi những kiến
thức chuyên sâu.Khoa học và văn chương là hai
lĩnh vực khác biệt hẳn nhau với nhiều chuyên
ngành khác nhau.Khó có thể có những người có kiến
thức uyên bác ở nhiều lĩnh vực khác xa nhau
đến như thế. Vậy th́ hàm ư của câu (82) là:
đó là những phụ nữ mặc dù không hiểu biết ǵ về khoa học nhưng
lại thích dự những cuộc hội thảo khoa
học v́ những lư do không dính dáng ǵ tới khoa học.
g)
Cuối cùng, có thể dùng hàng loạt từ “và” để
nối một dăy những đối tượng
đồng chức năng và tương hợp nghĩa
nhằm tạo ra lối nói nhấn mạnh.
(83)
(Tôi hiểu anh muốn bảo:) cái mặt tôi lạnh
như nước đá và ngượng
nghịu và vô duyên, và lố
bịch và đủ hết
(NC).
Câu
(83) tương đương với: (Tôi hiểu anh muốn
bảo:) a Ù
b Ù c Ù d Ù e.Câu này dùng lặp từ và nhằm tạo ra sự nhấn
mạnh.
(84)
Tôi nhắc anh và đây là lần nhắc cuối cùng.
2.1.3. Hai
liên từ và, and. Ngôn
ngữ và lô gích
a) Phép
hội lô gích, phép cộng hay phép nhân trong số học có
tính đối xứng, nhưng liên từ và, and th́ không.
Nghĩa
là: a Ù b = b Ù a; a + b = b + a; a.b = b.a
Nhưng:
a và b ¹ b và a; a and b ¹ b and a
Do
trật tự tuyến tính, hai từ “và”, “and” dùng
để liên kết hai sự kiện xảy ra kế
tiếp nhau theo thứ tự thời gian chứ không
đồng thời xảy ra, nên:
(85) John tháo giày và nhảy
xuống hồ ¹ *? John nhảy
xuống hồ và tháo giày.
» John took off his shoes and jumped in the pool ¹ *?John jumped in the pool
and took off his shoes.
Do yếu tố dụng học, chẳng hạn quan hệ nhân quả giữa hai sự kiện, nên “và” và “and” không thể có tính đối xứng.
(86a) Cô Mai lấy chồng và sinh con.¹ (86b) Cô Mai sinh con và lấy chồng.
(86c) Mai got married and had a baby. ¹ (86d) Mai had a baby and
got married.
Trong câu
(86b) và (86d) rơ ràng là cuộc hôn nhân của Mai xảy ra sau
khi cô ta có con. Nghĩa là ở câu (86b) người ta sẽ hiểu là
cô Mai có con trước khi lấy chồng. Nghĩa của câu (86d)
chắc chắn khác nghĩa với câu (86c). Nếu Mai là một người
phụ nữ vẫn theo quan niệm đạo đức
xưa th́ cô ta có thể phản ứng v́ bị xúc phạm
là có con rồi mới tổ chức lễ cưới.
Một
khi từ “và”, “and” được hiểu theo nghĩa nhân
quả th́ người ta có thể thêm từ “rồi”(với tiếng
Việt) và “then” (với
tiếng Anh):
(86a) » Cô Mai lấy chồng và
rồi sinh con.
(86c) » Mai got married and
then had a baby.
b) Mơ hồ về quy chiếu
Liên
từ và nối hai danh
từ làm chủ ngữ trong một câu có thể gây ra
hiện tượng mơ hồ.
Kết
nối hai danh từ làm chủ ngữ trong câu sẽ không
mơ hồ trong những trường hợp sau:
-
Vị ngữ là động từ
nội động, như: làm
việc, học tập, hát, nói, viết, cười…
(87) Ba và Năm làm việc.
-
Vị ngữ là những động
từ ngoại động đ̣i hỏi bổ ngữ xác
định gắn chặt với từng chủ thể,
như: viết thư, uống
trà, ăn kem, đọc sách…
(88) Ba và Năm lấy vợ Hàn
Quốc.
(89) Ba và Năm đi gặp
người yêu.
Kết
nối hai danh từ làm chủ ngữ trong câu sẽ mơ
hồ trong những trường hợp sau:
-
Chủ ngữ ở vai tiếp nhận.
Lúc đó có thể hiểu là tiếp nhận riêng lẻ
từng người một hay là tiếp nhận
đồng thời cho cả hai. Ví dụ:
(90) Ba and Mai
have won a prize » Ba và Mai vừa nhận
thưởng.
Câu trên mơ
hồ v́ đây là phần thưởng chung cho hai
người hay mỗi người một phần
thưởng? Để diễn đạt nghĩa đây
là những phần thưởng riêng th́ cần thêm each, mỗi – một: Ba and Mai each have won a prize. »Ba và Mai mỗi người
vừa nhận một
phần thưởng.
-
Vị ngữ là động từ ngoại
động mà bổ ngữ có thể hiểu theo nghĩa
phân bố hoặc tổng thể. Ví dụ:
(91) Ba và Mai xem một bộ phim Hàn Quốc
(92) Ba và
Mai đă mua 5 quyển sách.
(93) Ba and
Bốn visited their uncle(s). »Ba và Bốn
đă thăm bác ḿnh.
Câu (91) là
mơ hồ v́ có thể hiểu hai người cùng xem
một bộ phim và cũng có thể hiểu là họ xem
hai bộ phim khác nhau.
Câu (92)
mơ hồ v́ có thể hiểu con số 5 theo nghĩa
tổng thể (tổng số sách hai người mua là 5)
hay hiểu theo nghĩa phân bố (mỗi người mua 5
quyển sách)
Câu (93)
mơ hồ v́ không biết họ thăm người bác
chung của hai người hay họ có những
người bác khác nhau?
Nếu là những người bác riêng biệt th́ dùng
từ respective (cho tiếng
Anh), và mỗi người (cho
tiếng Việt) câu sẽ không c̣n mơ hồ.
(93) » Ba and Bốn visited their respective uncles. »Ba và Bốn mỗi người đă
thăm bác ḿnh.
c)
Nhau, cùng,
cùng (với), với, cũng như, kiêm – những
từ chỉ quan hệ tương hỗ, đồng
thời – khiến tiếng Việt có thể không cần
dùng từ “và”.
(94) Ba and Mai got married.
(95) Ba và Mai lấy nhau.
B́nh thường, câu (94) được
hiểu là: “Ba got married” (Ba đi lấy vợ), “Mai got
married” (Mai đi lấy chồng), và “Ba and Mai married each
other” (Ba và Mai lấy nhau). Nhờ từ nhau mà câu tiếng Việt (95) mất khả
năng hiểu Ba và Mai kết hôn với những
người khác như ở câu tiếng Anh (94).
(96) Ba and
Mai went up the hill. » Ba với/[cùng] Mai đi lên
đồi.
(97) Ba and I walked some distance. »Tôi với Ba
đi dạo một quăng.
(98) For the living and dead. »Cho người
sống cũng như cho
người chết.
(99) She is a receptionist and waiter. »Cô ta là lễ tân kiêm phục vụ bàn.
d) Ngoài
“and”, trong tiếng Anh c̣n những liên từ khác cũng
chứa ư nghĩa của một phép hội lô gích kèm theo
những ư nghĩa khác. Đó là:but, in
contrast with, although, yet, nevertheless, even though, however, still,
notwithstanding, despite, on the other hand, in spite of.
(100) Ba passed but Mai did not. »Ba đỗ nhưng Mai th́ trượt.
(101) In
contrast with Ba, Mai failed. »
Trái với Ba, Mai đă trượt.
(102) Ba passed; on the other hand Mai didn’t.
» Ba
đỗ, c̣n Mai lại trượt.
(103) Although
Mai failed Ba passed. »
Mặc dù Mai trượt nhưng Ba lại đỗ.
(104) Mai
failed, nonetheless Ba passed. »
Mai trượt, tuy nhiên Ba lại đỗ.
(105) Even
though Mai failed Ba passed. »
Mặc dù Mai trượt, nhưng Ba lại đỗ.
(106) Mai failed
yet Ba passed. »
Mai trượt, tuy vậy Ba lại đỗ.
(107) Mai
failed, however Ba passed. »
Mai trượt, tuy nhiên Ba lại đỗ.
(108) Mai
failed, still Ba passed. »
Mai trượt, c̣n Ba lại đỗ.
(109)
Notwithstanding Mai’s failing Ba passed. »
Despite Mai’s failing Ba passed »
In spite of the fact that Mai failed Ba passed »
Mặc dù Mai trượt nhưng Ba lại đỗ.
Tất cả những câu trên đây của tiếng Việt cũng như tiếng Anh đều tương đương với một phép hội lô gích của hai mệnh đề.
e) Một
vài khác biệt: “and” không chuyển thành “và”
Từ ghép đẳng lập AB của
tiếng Việt có thể tương đương
với “A and B” của tiếng Anh:
(110) My father is certain to offer
you gold and gems, but do not accept them » Cha tôi hẳn sẽ
tặng vàng ngọc cho
người, nhưng xin
người chớ nhận.
(111) This hair cream may be used by men and women. »Dầu chải tóc này hân hạnh phục vụ các ông bà.
Trong
tiếng Anh, có thể dùng từ “and” để kết nối mục đích, nguyên
nhân, điều kiện với kết quả. Nhưng
tiếng Việt lại dùng “để
mà”, “nên”, “th́”:
(112) Try and come early. »Cố
gắng (mà) đến
sớm nhé.
(113) Give and
take. »Cho đi
để mà lấy lại.»có đi có lại.
(114) Wait and see. » (hăy)
Chờ (mà) xem.
(115) Tấm khéo bắt cá nên đến cuối ngày th́ đă đầy giỏ …” » Tam fished diligently, and by the end of the day she had a basketful of fish (TC).
(116) His heart is still laden with earthly memories,and his wish shall be granted …
» Tâm hồn chàng c̣n nặng trĩu hoài nhớ đến cơi trần th́ ta cũng nên để chàng toại nguyện …
Trong tiếng Anh, liên từ and phải tường minh khi nối hai yếu tố đẳng lập.Ở tiếng Việt, sự có mặt của “và” có khi chỉ là một lựa chọn.V́ vậy, một số lượng đáng kể từ “và” được lược bỏ hoặc thay thế bằng dấu phẩy hoặc những yếu tố ngôn ngữ khác đậm nét t́nh huống hơn. Ví dụ:
(117) Tấm kể lại đầu đuôi câu chuyện rồi thêm…(TC)»Tam related all that happened and added …
(118) Tấm nghe theo lời khuyên liền bơi ra xa hụp xuống nước để gội đầu tóc …(TC) » Tam listened to this adviced, and swam out into the water to wash her hair …
(119) Cái
điếu cày và cái đóm lửa
bị năm sáu người chuyền tay, chiếu đi,
chiếu lại độ vài ba ṿng, ánh lửa lại tắt,
trong điếm chỉ c̣n tiếng nói chuyện ŕ rầm …
(NTT) »The bamboo bubble pipe and the torch passed round between five
or six men; after several turns the fire died out, and only the hum of conversation was heard.
2.2. Liên
từ hay/hoặc và tác
tử lô gích Ú .
Liên hệ với or của
tiếng Anh
2.2.1. Trong tiếng Việt hai liên từ hay, hoặc được dùng để liên kết hai thành tố đẳng lập trỏ sự tuyển chọn. Chẳng hạn liên kết hai câu, liên kết hai từ để tạo thành câu ghép đẳng lập, cụm từ đẳng lập mang ư nghĩa tuyển chọn.Theo ư nghĩa này chúng tương đương với liên từ lô gích “Ú” dùng để tạo ra mệnh đề tuyển. Ngoài ra từ hay c̣n được dùng để tạo ra câu hỏi tuyển chọn.
(120) Anh đi hay cô ấy đi th́ cũng vậy thôi.
(121) Anh đi hay cô ấy đi?
Câu (120) là câu tường thuật c̣n (121) là câu hỏi.
Trong những biện pháp tu từ, từ hay có thể dùng để so sánh:
Mở đầu bài thơ Người con gái Việt Nam,
nhà thơ Tố Hữu hỏi “Em là ai? cô gái hay nàng tiên?” Về h́nh
thức, đây là câu hỏi tuyển chọn giữa “cô
gái” và “nàng tiên” nhưng thực chất đây không phải
là câu hỏi tuyển chọn mà ngầm ẩn chứa
đựng sự so sánh ẩn dụ: cô gái – anh hùng
Trần Thị Lư – đẹp như nàng tiên. Và những câu
tiếp theo cũng vậy, là những so sánh dùng từ hay: “Mái tóc em đây hay là mây là suối?/Đôi
mắt em nh́n hay chớp
lửa đêm giông?”
Để thể hiện sự
tuyển chặt trong lô gích chúng ta dùng từ hoặc:
(122) Chồng cô Hương sẽ là
anh Ba hoặc anh Năm.
(123) Hoặc
anh hoặc tôi sẽ
đi Ḥa B́nh chiều ngày mai.
Không
thể nói: (124) *Hay anh hay tôi sẽ đi Ḥa B́nh
chiều ngày mai;
(124b) *Hay
anh hoặc tôi sẽ đi
Ḥa B́nh chiều ngày mai.
Tuy nhiên
có thể nói: (124c) ??Hoặc
anh hay tôi sẽ đi Ḥa B́nh
chiều ngày mai.
2.2.2. Trong lô gích, phép tuyển có tính đối xứng, nhưng trong tiếng Việt hai từ hay, hoặc không có tính đối xứng. Trong lời nói điểm nhấn thường được đặt lên câu đầu, vế đầu. Năm 1984, chúng tôi đă hỏi sinh viên ngữ văn năm thứ nhất trường Đại học tổng hợp Hà Nội về cách hiểu và sự khác biệt ngữ nghĩa giữa các câu sau:
(125a) Tôi tín nhiệm anh hay không tín nhiệm anh, điều đó tùy thuộc ở anh.
(125b) Tôi không tín nhiệm anh hay tín nhiệm anh, điều đó tùy thuộc ở anh.
(126a) Anh khuyên hay tôi khuyên th́ nó đi.
(126b) Nếu anh khuyên hay tôi khuyên th́ nó đi.
(126c) Anh khuyên hay tôi khuyên th́ nó vẫn đi.
Có 62% sinh viên cho rằng hai câu (125a) và (125b) khác nghĩa nhau.Ở (125a) có nhiều khả năng tín nhiệm hơn.Có (33%) cho rằng ở (125b) dường như trước đó đă có sự thắc mắc về điều không tín nhiệm.
Về câu (126a), có 63% cho rằng có thể hiểu theo hai cách, hoặc là câu hỏi hoặc là câu khẳng định. Có 32% cho rằng đó chỉ là câu hỏi.Có một em nói đó là câu khẳng định.
V́ sao có hiện tượng này? Trước hết dạng thức lô gích của câu (126a) là:
aÚ b ̃ c (I)
Có 95% hiểu rằng có thể nhấn mạnh vào từ hay ở câu (126a) để tạo ra câu hỏi, nghĩa là một câu hỏi tuyển chọn giữa hai câu. Nói cách khác, (I) được hiểu là sự rút gọn của (II) và (126a) là sự rút gọn của (127a):
(ã c) Ú (b̃ c) (II)
(127a) Nếu anh khuyên th́ nó đi hay nếu tôi khuyên th́ nó đi?
Có 68% hiểu rằng trong (126a) có thể nhấn mạnh vào từ th́ để tạo ra câu khẳng định.Nghĩa là giữa hai vế của (I) có quan hệ điều kiện-kết quả (nếu…th́…) c̣n từ hay chỉ làm nhiệm vụ tuyển chọn giữa hai thành phần của tiền đề. Lúc này (I) được hiểu là:
(aÚ b) ̃ c (III)
Trong (126a), nếu thay hay bằng hoặc th́ câu chỉ c̣n được hiểu như (III).Điều này cũng chứng tỏ rằng hoặc chỉ được dùng trong câu tường thuật.
Hai câu (126b) và (126c) được hỏi sau khi sinh viên đă biết rằng câu (126a) có hai cách hiểu. Kết quả về cách hiểu câu (126b):
- Có 59% hiểu đây là một câu điều kiện-kết quả.
- Có 18% nói câu này có hai cách hiểu, khẳng định và hỏi.
- Có 18% nói đây là một câu hỏi.
- Có 1 sinh viên cho rằng “anh khuyên hay tôi khuyên th́ nó chống lại lời khuyên”
Những kết luận rút ra từ kết quả trên: So với câu (126a), câu (126b) có thêm từ nếu để báo hiệu điều kiện-kết quả thế mà vẫn có 36% người nhận ra đó là một câu hỏi. Điều này chứng tỏ rằng chức năng tạo ra câu hỏi của từ hay rất mạnh.
Kết quả về cách hiểu câu (126c):
- Có 77% hiểu đây là câu nêu quan hệ khiên cưỡng (lời khuyên của anh hay của tôi đều không có giá trị ǵ với nó).
- Có 32% hiểu đây là câu nêu quan hệ điều kiện-kết quả.
- Có 9% hiểu đây là câu khẳng định.
- Có một sinh viên nói đây là câu hỏi.
- Có 23% cho rằng câu này có hai cách hiểu.
Kết quả này lại rất đáng lưu ư ở một phương diện khác: Trong (126c) có thêm từ vẫn và cách hiểu là một câu hỏi hầu như đă biến mất. Điều này chứng tỏ rằng từ vẫn có chức năng tạo ra câu khiên cưỡng hoặc một câu điều kiện-kết quả. Khi nó xuất hiện trong câu th́ chức năng tạo ra câu hỏi tuyển chọn của từ hay đă biến mất. Lúc này hay chỉ có chức năng liên kết tạo ra một vế của câu ghép: hay chỉ c̣n chức năng tuyển chọn hai yếu tố nằm trong tiền đề của cấu trúc điều kiện-kết quả. Cấu trúc đầy đủ của (126c) là Dù A th́ vẫn B:
(126d) Dù anh khuyên hay tôi khuyên th́ nó vẫn đi.
2.2.3. Mối quan hệ giữa hay và và: Không có tính phân phối như trong lô gích.
Trong tiếng Việt cũng như trong các ngôn ngữ tự nhiên khác, v́ thiếu những từ ngữ tương đương với dấu mở ngoặc và đóng ngoặc đơn nên vế trái của hai công thức (2.2.5a) và (2.2.5b) [§2.] thường có dạng
(A) a
hay/hoặc b và c
(B) a và b
hay/hoặc c
ở đó a, b, c là những câu tường thuật.
Những câu (A), (B) thường mơ hồ. Một số ví dụ về câu dạng (A):
(128) Quyển sách ấy tôi sẽ mượn cho anh hoặc tôi sẽ viết thư tới anh Ba và nhờ anh ấy mượn cho anh.
(129) Adam will take Lucy or Cathy and Diana.
Hai cách hiểu
câu này là: (129a) (Adam sẽ đưa Lucy) hoặc(Adam
sẽ đưa Cathy và
Diana); (129b) (Adam sẽ đưa Lucy hoặc
Cathy) và (Adam sẽ đưa Diana).
Không
thể khử mơ hồ bằng cách thêm EITHER được.
Có thể dùng từ BOTH, nhưng kết quả là câu nghe
không được tự nhiên: “Adam will take Lucy or both Cathy and Diana” và câu “Adam will
take both Lucy or Cathy and Diana”, những câu này có thể
được chấp nhận bằng cách sử dụng
ngữ điệu và trọng âm thích hợp.
(130) Angela is Ben’s mother or David’s grandmother and Charlie’s
aunt.
Hai
cách hiểu câu này là: (130a) (Angela là mẹ Ben) hoặc là
(Angela là bà của David và d́ của
Charlie); (130b) (Angela là mẹ Ben hoặc là bà của David) và (Angela là d́ của Charlie)
Câu
(130b) khẳng định Angela là d́ của Charlie.C̣n không có
công thức nào khẳng định Angela là mẹ của
Ben, nó chỉ là sự lựa chọn với là bà của
David.
Một số ví dụ về câu dạng (B): a và b hay/hoặc c
(131) Tôi sẽ tham dự hội thảo và sẽ có báo cáo khoa học về cải cách hành chính hoặc về chống tham nhũng.
Câu trên cũng như câu (128) lần lượt được hiểu như là vế trái của hai công thức (2.2.5a) và (2.2.5b), nhưng không thể biển đổi thành vế phải của chúng. Chẳng hạn, với câu (131) không ai nói thành:
(131b) Tôi sẽ tham dự hội thảo và sẽ có báo cáo khoa học về cải cách hành chính hoặc tôi sẽ tham dự hội thảo và sẽ có báo cáo khoa học về chống tham nhũng.
(132) Alice went to Birmingham and she met Cyril or she
called on David.
Có thể
dùng ngoặc đơnđể
thể hiện hai cách hiểu câu này: (132a): (Alice đến
Birmingham) và (Alice gặp Cyril hoặc Alice gọi cho David).
Nghĩa là: Alice đến Birmingham nhưng không nhất thiết
sẽ gặp Cyril v́ Alice có một lựa chọn khác là gọi
cho David. (132b): (Alice đến Birmingham và gặp Cyril) hoặc
(Alice gọi cho David). Nghĩa là: Alice không cần phải
đến Birmingham và gặp Cyril, v́ có một lựa chọn
khác là gọi cho David.
Muốn dùng câu trên theo một
nghĩa xác định th́ thêm either
có vai tṛ như một dấu ngoặc đơn:
(132c) Alice went to Birmingham and either she meet Cyril or she called on David.
(132d) Either Alice went to Birmingham and she met Cyril or she called on David.
Tuy nhiên, do ư nghĩa của các từ ngữ mà tùy trường hợp cụ thể chúng ta thường hiểu chúng theo một cách xác định. Ở câu (128) nói về cách mượn giúp, do vậy mà chúng ta hiểu là a Ú (b Ù c) chứ không hiểu là (a Ú b) Ù c. C̣n ở câu (131) thông báo rằng sẽ dự hội nghị và sẽ báo cáo về một trong hai đề tài, do vậy được hiểu là a Ù (b Ú c). Câu dưới đây có cùng cấu trúc như (131):
(133) Tôi sẽ viết báo cáo và cử thư kư đọc thay hoặc là đồng chí phó giám đốc sẽ đến dự hội nghị.
Câu (133) lại được hiểu thành (a Ù b) Ú c.
Lại có những câu dù nội dung ngữ nghĩa đă khá rơ ràng nhưng vẫn không thể biết được nên hiểu như thế nào cho đúng.
(134) Nếu anh đề nghị (Đ) hoặc tôi nêu ư kiến (Y) và trưởng pḥng tài vụ không phản đối (~P) th́ thủ trưởng sẽ kư duyệt (K).
Hai cách hiểu đều có thể chấp nhận được của câu trên là:
(134a) ((Đ Ú Y) Ù (~P)) ̃ K
(134b) (Đ Ú (Y Ù (~P)) ̃ K
Tuy nhiên, để khắc phục t́nh trạng thiếu dấu ngoặc, trong ngôn ngữ tự nhiên thường có cách từ ngữ bổ trợ như là những bộ lọc cho phép ta, trong phần lớn các trường hợp có thể hiểu mỗi câu theo một cách xác định. Chẳng hạn, muốn cho câu (134) được hiểu theo nghĩa (134a) chúng ta đặt đấu phẩy sau từ “ư kiến” để từ và không c̣n khả năng kết hợp với bộ phận đi trước được nữa. Khi nói, ta không thể đệm câu “Tôi đặt dấu phẩy trước từ và” vào giữa câu (134), lúc này người ta lại dùng công cụ ngữ âm, như ngắt giọng, hoặc thay cho từ và bằng cả cụm từ “và tất nhiên nếu”.
Một
số ví dụ khác:
(135)
Nga
đến Huế vàcô ta gặp Dung hoặccô ta gọi cho Thúy.
Hai cách hiểu câu trên là: (135a)
Nga đến Huế và(cô ta gặp Dung hoặccô ta gọi cho Thúy). (135b) (Nga đến Huế vàcô ta gặp Dung)hoặccô ta gọi cho Thúy.
(136)
Tư là anh của Sửu hoặc chú của Dần và cháu của Măo.
Hai cách
hiểu câu trên là: (136a) (Tư là anh của Sửu hoặc Tư là chú của Dần)và Tư là cháu của Măo. (136b) Tư
là anh của Sửu hoặc(Tư
là chú của Dần và Tư là
cháu của Măo).
Có thể khử sự
mơ hồ bằng cách dùng cặp hoặc … hoặc …
(135a) » Nga đến
Huế và hoặc cô ta
gặp Dung hoặc cô ta
gọi cho Thúy.
(135b) »Hoặc Nga đến Huế và cô ta gặp Dung hoặc
cô ta gọi cho Thúy.
2.2.4. Phạm vi tác động (scope) của tiểu từ phủ định
Một chuyện cười dẫn từ (TTCT, 16.8.2009): Một ông vừa tục huyền, sau lễ cưới bảo cô vợ mới:
- Em yêu, anh có một nhược điểm lớn là hay ghen vô cớ lắm.
(137) Ôi anh yêu, em sẽ không bao giờ để cưng phải ghen vô cớđâu.
Chuyện cười trên dựa trên hai cách hiểu về phạm vi tác động của cụm từ “không bao giờ” trong câu (137):
(137a) không bao giờ để cưng phải ghen (vô cớ)®không bao giờ để phải ghen
(137b) không bao giờ để cưng phải ghen vô cớ®đă ghen là có cớ (có lư do)
Xem xét các câu sau:
(138a) Không phải tôi được điểm 10 hoặc/hay anh được điểm 9.
(138b) Không phải tôi được điểm 10 và anh được điểm 9.
(139a) Hắn không uống hoặc/hay gắp liên tiếp.
(139b) Hắn không uống và gắp liên tiếp.
Các câu a được hiểu là phép phủ định của một tuyển ~ (a Ú b), nghĩa là tác tử “không phải” tác động vào cả hai vế của câu. Và chúng được hiểu là:
(138a) » (138c) Không phải tôi được điểm 10 và không phải anh được điểm 9.
(139a) » (139c) Hắn không uống và hắn không gắp liên tiếp.
Các câu c được hiểu là phép hội của hai mệnh đề phủ định (~a) Ù (~b).
Như vậy, trong những trường hợp (138a) và (139a) – sự phủ định một câu phức tuyển chọn – th́ tiếng Việt phù hợp với định luật Morgan.
Trái lại câu (138b) được hiểu là sự phủ định của một hội ~ (a Ù b), nghĩa là tác tử “không phải” tác động vào cả hai vế của câu đó. Nhưng câu này cũng vẫn được hiểu như (138c).C̣n câu (139b) th́ mơ hồ. Do vậy trong trường hợp sự phủ định một câu phức liên hội bằng từ và th́ quy tắc Morgan không c̣n đúng với ngôn ngữ tự nhiên.
Lưu ư:
Một hành vi mệnh lệnh phủ định (được từ vựng hóa thành từ cấm ) luôn luôn tác động vào cả hai vế của một câu phức liên hội bằng từ và:
(140) Cấm rẽ trái và bóp c̣i inh ỏi. » Cấm rẽ trái và cấm bóp c̣i inh ỏi.
(141) Cấm trẻ em hút thuốc lá và uống rượu. » Cấm trẻ em hút thuốc lá và cấm trẻ em uống rượu.
Lưu ư trên đây cũng đúng với những động từ quên, thôi, kiêng, tránh, chối, từ bỏ… là những động từ tạo ra ư nghĩa phủ định bổ ngữ:
(142) Ba đă quên mang sách và kính.» Ba đă quên mang sách và quên mang kính.
(143) Ba đă thôi học tiếng Trung và tiếng Nhật » Ba đă thôi học tiếng Trung và thôi học tiếng Nhật.
(144) Ba kiêng ăn mỡ và ăn đường.» Ba kiêng ăn mỡ và Ba kiêng ăn đường
Trong các biểu thức miêu tả, từ hay dùng để liên kết những sự vật có thuộc tính gần giống nhau. Khó chấp nhận việc dùng từ hay để miêu tả, tuyển chọn hai sự vật có thuộc tính khác xa nhau. Có thể nói
(145) Tôi thấy một người đi chiếc xe Honda hay Yahama ǵ đó vừa qua đây.
Nhưng không thể nói:
(145b) *Tôi thấy một chiếc xe tải hay xe ḅ ǵ đó vừa qua đây.
Có thể nói:
(146) Chắc đó là một nhà văn hay một diễn viên nào đó.
Nhưng không thể nói (trừ phi muốn châm biếm):
(146b) * Chắc đó là một bộ trưởng hay một tay anh chị nào đó.
2.2.5. Phép tuyển chặt và tiếng Việt
Phéptuyển
chặt ( a\/ b) hay là sự lựa chọn gạt bỏ
giữa hai yếu tố a và b được định
nghĩa như sau: ( a \/ b)
= (a Ú b) Ù~(a Ù
b). Từ định nghĩa
này và từ hai công thức (2.2.8e)
và (2.2.8g) suy ra: ( a \/ b)
= ((~b) ̃ a) Ù
(b ̃ (~a))
Để
diễn đạt khái niệm này, trong tiếng Việt có
những lối nói sau:
( a) (Hoặc) a hoặc b,
nhưng không cả hai.
( b ) a, nếu không b.
( c) a, trừ phi b.
Ví
dụ:
Tuy nhiên
hai lối nói (b), (c) tạo ra sắc thái nghĩa sau đây:
yếu tố a có tầm quan trọng thứ yếu trong
sự lựa chọn này. Hai
lối nói (b) và (c) trên đây không tương
đương một cách lô gích với phép tuyển
chặt. Trong thực tế để thể hiện
sự lựa chọn gạt bỏ a không thấy ai dùng
lối nói “a, nếu không b và không a nếu b”. Để
thể hiện sự tuyển chặt giữa a và b, trong
tiếng Việt c̣n có lối nói “[nếu] chẳng [/không] là a th́ là b”, ở đó a và b
loại trừ lẫn nhau. Ví dụ lời một thầy
bói trong ca dao: “Số cô không giầu
th́ nghèo/Ba mươi Tết
có thịt treo trong nhà”; “Số cô có vợ có chồng/Sinh con
đầu ḷng chẳng gái th́ trai”.
Để nối hai câu
đơn tạo ra một mệnh đề loại trừ
nhau, tiếng Anh dùng cặp từ either…or… (hoặc là …
hoặc là…):
(150) He
spends all his time either listening
to the radio or watching television. » Anh ta dành tất cả th́ giờ hoặc để nghe radio hoặc xem vô tuyến truyền
h́nh.
(151) I left
my purse either on the table or in the drawer. »Tôi đă để
ví của tôi trên bàn hoặc trong ngăn kéo.
(152)
Either Ba
isn’t an athlete or he
isn’t a musican » Ba không phải là một vận động
viên cũng không phải là một nhạc sĩ.
2.2.6. Một
vài so sánh với từ or tiếng Anh
a. Như
chúng ta đă lưu ư, từ hay
c̣n được dùng để tạo ra câu hoặc
bộ phận câu tuyển chọn [§2.2.1.]. Dạng
đầy đủ của loại câu này là “S hay không S”,
ở đó S là một câu. Lược bỏ yếu tố
lặp lại sẽ được một cấu trúc rút
gọn “S hay không”. Cấu
trúc tiếng Anh tương ứng là “whether S or (not)”. Tùy nội dung mà câu được
hiểu là tuyển lỏng hay là tuyển chọn loại
trừ.
Những câu tuyển chặt:
(152) Tôi không biết là tôi có chịu nổi
sự đau đớn ở cánh tayhay không. » I don’t
know whether I can bear this pain in
my arm or not.
(153) The farmers will have to irrigate whether it rains or not. »Nông dân
sẽ phải dẫn nước vào ruộng dù trời có
mưa hay không.
(154) I didn’t know whether it was inhabited or not inhabited »Tôi không biết là trên
đảo có người hay
không.
(155) I did not know whether I was on the continent or
on the island. »Tôi
không biết là tôi đang ở trên lục địa hay
đang ở trên một ḥn đảo.
Những câu tuyển lỏng:
(156) I
thought for a while about this what kind of drelling to make, whether it should be a cave in the earth
or a tent upon the ground.»Trong một chốc, tôi suy nghĩ về
vấn đề này và xem phải làm loại nhà ǵ, và xem cái
nhà đó nên ở trong hang hoặc ở trên mặt đất.
[Nếu có điều kiện và khả
năng th́ có thể làm nhà ở cả hai nơi.]
(157) I needed security from savage creatures whether men or beasts.»Tôi
cần an toàn và thoát khỏi những loài vật man rợ
dù người hay thú dữ.
(là câu tuyển lỏng v́ loài vật man
rợ là thú dữ nhưng cũng có thể hiểu là
người)
(158) Whether he is at work in the heart of
the big city or at home in the quiet
suburb, Dick’s life in tied to machine. » Dù ông ta làm việc tại trung tâm thành
phố lớn hay ở tại nhà trong vùng ngoại ô yên
tĩnh, cuộc sống của Dick đều gắn liền
với máy móc.
(Làm tại
nhà vẫn có thể gắn với máy móc)
b. akẻob»anếu không b»aor else b
Lối
nói này diễn đạt hành vi cảnh báo “cần thực
hiện a để không xảy ra b là điều không mong
muốn.” (tức là có quan hệ
lô gích: (~a) ̃ b). Để diễn đạt
nghĩa này, tiếng Anh chỉ cần dùng liên từ or hoặc or else:
(159) Turn the heat down or your cake will burn. »Vặn cho nhiệt
độ thấp xuống kẻo
cháy bánh đấy.
(160) Hurry up or
else you’ll be late. »Nhanh
lên không th́ [/kẻo] chậm đấy.
(161) You must go to work or else you’ll lose your job. »Anh phải đi làm nếukhông anh sẽ mất việc.
(162) Pay up or
else!»
Hăy trả tiền đi, nếu
không th́ (sẽ biết tay!)
(163) You’d better give me that book - or else!»Anh nên đưa cho tôi cuốn sách
đó – không th́ (liệu
đấy!)
c. Hành vi điều chỉnh: nói chính xác hơn » or rather
(164) We stayed at my friend’s house or
rather at my friend’s parents’ house. »Chúng tôi ở lại nhà bạn tôi, nói
đúng hơn, ở nhà bố mẹ của bạn tôi.
(165) He is my cousin or rather my father’s
cousin. »
Ông ấy là người anh em họ – nói đúng hơn là, anh em họ của
cha tôi.
d. Cả hai đối tượng a và b
đều bị phủ định
Tiếng
Việt hoặc dùng từ và
để diễn đạt ư nghĩa đồng thời
(Không a và không b) hoặc dùng
từ cũng để
đối chiếu cả hai đều bị phủ
định (Không a cũng không
b). Tiếng Anh đặt tác tử phủ định
trước cả cụm “a or
b”, hoặc dùng cặp “neither … nor …”
(166) He can’t read or write. »Nó
không biết đọc cũng không biết viết.»“ Nó không biết đọc và không biết viết”.
(167) Theynever
dance or sing. Họ không bao giờ
nhảy mà cũng không bao giờ hát.
e.
Tức là » or dùng
để biểu hiện hành
vi giải thích một điều đồng nhất.
(168) An
increase of 50 p, or 10 shillings
in old money. »
Tăng thêm 50 pence, tức là 10 shillings theo tiền cũ.
(169) A kilo, or
two pounds.»Một
kilô, tức là hai pao.
(170) Geology, or
the science of the earth’s crust.»Địa chất học, tức là
khoa học nghiên cứu vỏ trái đất.
6. Từ or » (không biết
có phải thế không): người nói băn khoăn
đúng sai về một điều vừa khẳng định
(171) He was obviously lying – or was he? »
Rơ ràng là nó nói dối – không biết có phải thế không nhỉ?
(172) I need a new coat – or do I. » Tôi cần một cái
áo mới – chẳng biết đúng không nữa?
2.3. Cặp liên từ nếu – th́
2.3.1.Trong câu ghép “nếu
A th́ B”, giữa hai vế A, B phải có mối liên
hệ ư nghĩa. Ư nghĩa đó có thể là biểu
trưng. Chúng ta có thể gặp những câu như:
(173) Nếu anh làm th́ anh chịu trách nhiệm.
(174) Nếu thế hệ này chịu đau th́ thế hệ sau nghe hát (CLV).
Trong loại câu này có thể lược đi từ nối:
(173b) Anh làm th́ anh chịu trách nhiệm.
(173c) Nếu anh làm, anh chịu trách nhiệm.
Phép kéo theo lô gích “A ̃ B” không đ̣i hỏi có mối liên hệ ngữ nghĩa mà chỉ đ̣i hỏi điều kiện chân lư giữa hai vế. Ví dụ:
(175) Nếu anh làm th́ 2 > 3
2.3.2. Công thức (2.2.8e) có nghĩa là phép kéo theo lô gích a ̃ b có thể biểu thị quan hệ tuyển chọn giữa hai mệnh đề ~a hoặc b, có điều này th́ không có điều kia.
Một chương tŕnh của VTV1 cho thấy trong cách mạng tháng 8. 1945, có một đoạn phim về một đoàn người diễu hành giương cao khẩu hiệu “Độc lập hay là chết”. Dưới góc độ của lô gích mệnh đề, khẩu hiệu đó tương đương với câu sau:
(176) Nếu không có độc lập th́ sẽ chết
Ngược lại, chúng ta có thể chuyển một câu tuyển chọn thành một phép kéo theo:
(177) Hoặc bắt đầu ngay hoặc không bao giờ đuổi kịp ai » Nếu không bắt đầu ngay th́ sẽ không bao giờ đuổi kịp ai.
Tương tự:
(178) Nếu em không xin lỗi bạn th́ bước ra khỏi lớp » Hoặc em không xin lỗi bạn hoặc em bước ra khỏi lớp.
(179) Nếu tôi không lầm th́ anh là người Sài G̣n » Hoặc anh là người Sài G̣n hoặc tôi lầm.
Ư nghĩa tuyển chặt này có thể được biểu hiện dưới h́nh thức hỏi:
(180) Theo đồng chí, nếu tôi không hiểu lầm th́ tất cả những cái đó đều là phản lại con người phải không ạ?
(181) Nếu tôi không lầm, anh cũng cải thiện bằng cách đó? (NMT3)
2.3.3. (Nếu) không A th́ cũng B
Đây không phải là một
cấu trúc thể hiện sự phủ định mà là thể
hiện một hành vi đánh giá, thể hiện sự khẳng định.Nó
cũng không phải là một câu điều kiện-kết
quả, tuy về h́nh thức th́ có vẻ như vậy. Ví
dụ:
(182) Không
thành công th́ cũng thành nhân.
(183) Cụ
ấy già lắm, không 90 th́
cũng đă 86, 87 rồi.
(184) Cô ấy
trẻ quá, không 17 tuổi th́ cũng chỉ 19 tuổi.
(185) Hắn không từng ngồi tù mấy
năm th́ cũng từng nhiều lần bị công an
gọi lên đồn.
Nghĩa:
Khẳng định một
đối tượng có thuộc tính ở mức độ
A hoặc B thấp hơn một chút (A ³ B) với hàm ư đối tượng
được nhắc tới tất cả những yếu có thuộc tính mà A, B là những
đại diện. Cấu trúc “Không A th́ cũng B” được rút gọn từ
cấu trúc “Nếu không là A th́ cũng là B”. Đây là mệnh
đề lô gích (~A ̃ B). Nó
tương đương với
mệnh đề tuyển (A Ú B), tức là khẳng định đối
tượnghoặc ở mức
A hoặc ở mức B. Do cấu trúc “X cũng…” có TGĐ là “đối
tượng X được coi là ngang bằng hay thấp
hơn một chút khi so sánh với một đối tượng
nào đó” mà từ ‘cũng’
đi kèm B làm cho B ở mức
thấp hơn mức A một chút. Chính v́ vậy mà những
câu sau đây không chấp nhận được: (183a ) *Cụ
ấy già lắm, không 86 th́
cũng đă 90 rồi.; (184a) *Cô ấy trẻ quá, không
19 th́ cũng chỉ 18 tuổi.
Câu
(182) là lời Nguyễn Thái Học bộc lộ quan điểm
“thành công ³
thành nhân”với hàm ư ít nhất cũng thành danh (» thành người).
Về
tuổi tác th́ tuổi 17 hay 18 đều rất trẻ và
17 trẻ hơn 18 (theo thang độ trẻ: 17 ³ 18) nên câu (184) là một lời khẳng
định với hàm ư cô ấy rất trẻ.
Tương tự, câu (183) là lời khẳng định với
hàm ư cụ ấy già lắm rồi.Chính cấu trúc trên cho
ta nhận ra quan điểm của một người nói
một câu có cấu trúc đó.Chẳng hạn, một
người b́nh luận “Tay A này chắc có người ở
nước ngoài, không th́ bố nó phải làm đến chức
ǵ to lắm.” (VN, 25.5.1996) Câu trên cho thấy quan điểm
của người nói cách đây (2016) 20 năm khi so về
mức độ giàu có th́ người nước ngoài
hơn một quan chức cao cấp ở Việt Nam.
·
“Đi
xe bạt mạng như thế, không
sớm th́ muộn cũng bị tai nạn giao thông.” ® sẽ bị tai nạn
sớm hoặc bị tai nạn muộn ®tất yếu sẽ bị
tai nạn giao thông.
2.3.4.(“Nếu)
không (là) A th́ ( là) B à?”
Câu trên có h́nh thức “ (~A) ̃
B”. Theo (2.2.8e), ta có: (~A)
̃ B = A Ú B. Vậy câu hỏi mà chúng ta xem xét có
h́nh thức tuyển chọn: “A hay B?” Người ta chất
vấn vế B. Mà chất vấn để bác bỏ.[§1.2.].
Yếu tố B bị bác bỏ, vậy cấu trúc trên có
hàm ư là sự khẳng định A. Ví dụ:
(186) Không gọi mày th́ gọi con chó à? (DTH)
(187) Chẳng nó th́ c̣n ai làm việc ấy?
2.3.5.V́ lô gích chỉ quan tâm tới giá
trị chân lư c̣n ngôn ngữ quan tâm đến cả nội
dung ngữ nghĩa nên cách hiểu trong câu điều
kiện-kết quả trong tiếng Việt thường
không trùng với phán đoán kéo theo lô gích “a ̃ b”. Do vậy, có những tính chất lô
gích không áp dụng được cho tiếng Việt.
Chẳng hạn trong lô gích, mệnh đề thuận
tương đương với mệnh đề
phản đảo (công thức 2.2.8b).Nhưng trong tiếng
Việt có những t́nh huống không áp dụng công thức
này được.Ở đây thứ tự các từ, và
tức là thứ tự thời gian; có ảnh hưởng
rất lớn tới sự h́nh thành nghĩa của câu. Ví
dụ:
(188) Nếu
anh làm lành th́ cô ấy xin
lỗi.
(189) Nếu
cô ấy không xin lỗi th́
anh không làm lành.
Theo lôgích h́nh thức, câu (188)
tương đương với (189). Lôgích là thế,
nhưng mọi người nói tiếng Việt b́nh thường
đều hiểu rằng trong câu (188) mặc dù “cô ấy’
sẽ xin lỗi nhưng với điều kiện là “anh”
phải làm lành trước th́ cô ấy mới xin lỗi, tức
là anh phải nhân nhượng trước; trái lại trong
câu (189) th́ cô ấy phải nhân nhượng trước,
cô ấy phải xin lỗi th́ anh mới làm lành. Sắc thái
ư nghĩa hai câu này khác hẳn nhau.
2.3.6.Cặp
liên từ nếu … th́ … được dùng để
trỏ quan hệ so sánh đối chiếu
(190) Nếu
như người bố ăn nói nông nổi, th́ hắn
lại suy nghĩ rất chi li trước khi cất
lời (NK).
(191) Nếu như Kim Cúc hồn nhiên th́
Đàm Liên rất nhạy cảm (VN,1972).
Trong hai câu trên không hề có
quan hệ nhân quả, chỉ thuần túy là sự đối
lập giữa hai tính cách: ăn nói nông nổi và suy nghĩ
rất chi li; hồn nhiên và nhạy cảm. Ở đây,
người ta muốn nhấn mạnh tới phần
đứng sau liên từ th́,
đó là tính cách quá ư tính toán trước khi nói của
người con, đó là sự nhạy cảm của
Đàm Liên. Thuộc tính đứng trước liên từ th́ được nêu lên để
chuẩn bị nhấn mạnh một điều đối
lập quan trọng nêu ở phần sau, ta xét thêm ví dụ:
(192) Nếu trước kia thái độ
chiếm ưu thế trong văn học là phê phán, phủ
định và tố cáo th́ ngày nay ngược lại là ca
ngợi, khẳng định và biểu dương.
Đôi lúc sự
đối lập này chỉ là h́nh thức, hai thuộc tính
được nêu không có ǵ đối lập với nhau
cả, chúng chỉ là một sự so sánh mang tính chất tu
từ.
(193) Nếu như ở Bắc Bộ có
vịnh Hạ Long quanh năm sóng vỗ dập dờn vây
quanh hàng ngh́n ḥn đảo nhỏ trong vịnh th́ ở Nam
Bộ nơi nghỉ mát được ưa thích nhất,
nên thơ nhất lại là Ô Cấp (ĐNNN).
(194) Nếu Thúy Vân có vẻ đẹp phúc
hậu, đoan trang th́ trái lại, Thúy Kiều lại mang
một vẻ đẹp sắc sảo mặn mà. Nếu
Thúy Vân có sắc đẹp kiều diễm với
gương mặt đầy đặn như trăng
tṛn, miệng cười như hoa, tiếng nói như ngọc
th́ Thúy Kiều lại có sắc đẹp nghiêng
nước nghiêng thành. Nếu cái đẹp của Thúy Vân
khiến cho mây phải thua, tuyết phải nhường
th́ cái đẹp của Thúy Kiều khiến cho hoa phải
ghen, liễu phải hờn.