NHỮNG và CÁC
NGUYỄN ĐỨC DÂN
1.
Các nhà Việt ngữ học đă bàn nhiều
về hai từ
‘các’ và ‘những’ theo những quan điểm khác nhau. Đó
là Lê Văn Lư (1948), Trần Trọng Kim (1950), Phan Khôi (1955), Hoàng
Tuệ (1962), Trương Văn Ch́nh (1963), Nguyễn Kim
Thản (1963), Nguyễn Tài Cẩn (1975), Phan Ngọc (1983),
Đinh Văn Đức (1983), Cao Xuân Hạo (1992), Nguyễn
Phú Phong (1996), Diệp Quang Ban (2005), … Trong [8] Bùi Mạnh Hùng
đă giới thiệu khá kỹ những quan điểm này.
Theo đó, “Nguyễn Tài Cẩn là người miêu tả
cặn kẽ nhất ngữ nghĩa và cương
vị ngữ pháp của ‘những’ và ‘các’ và có những
nhận xét có ảnh hưởng rất sâu rộng
đối với giới ngữ pháp tiếng Việt.”
Trong TĐTV của Viện Ngôn
ngữ học do Hoàng Phê (chủ biên) [9] có nhắc tới cách
dùng phụ trước danh từ của ‘các’ và ‘những’:
‘Các’ là “từ dùng để chỉ số lượng
nhiều được xác định, gồm tất
cả các sự vật được nói đến” [9, tr.114], như “Các nước
Đông Dương”. ‘Những’ là “từ dùng để
chỉ một số lượng nhiều, không xác
định” [9:722], như
“những trang giấy dày đặc con số”.
Nguyễn Tài Cẩn cho ‘những’ và ‘các’ là quán từ [2, tr.240 - 281]. Thế nhưng
theo ông đó không phải là những quán từ phân biệt
tính [± xác định] của
danh ngữ theo cách hiểu thông thường. Ông cho
biết những “không phải là một từ
hoàn toàn phiếm định như người ta
tưởng, mà trái lại, đó chính là một từ đáng
được xếp vào ngay bên cạnh ‘các’ với
tư cách là một quán từ xác định, chính xác. Và
như thế có nghĩa là trong tiếng Việt sẽ không
c̣n sự đối lập xác định / phiếm
định như xưa nay người ta miêu tả
nữa” [2,
tr.270]. V́ thế ông đề
nghị một sự phân biệt khác thay cho [± xác
định] là sự phân biệt [± thiết định
chính xác]. Các dùng “để đặt danh
từ vào trong thế thiết định chính xác […] nêu lên
một tập hợp sự vật, nêu một cách trọn
vẹn không bỏ sót, nêu mà không hề có một ư nghĩ
đem tập hợp đó đối lập với
một tập hợp nào khác” [2, tr.270]. C̣n những dùng
để đặt danh từ vào trong thế thiết
định không chính xác. Lúc đó “danh từ không nêu lên
một tập hợp sự vật với bản thân
tập hợp sự vật đó nữa, mà nêu là
để đối chiếu với một tập
hợp khác – tập hợp c̣n lại – sau khi đă tách nó ra
khỏi tập hợp lớn hơn.”[2, tr.271] Tác
giả đưa ví dụ: Các em nàng! Những
đứa em thông minh và ngoan ngoăn quá! (Thạch Lam) và
phân tích: Lúc đầu phải dùng ‘các’ là v́ lúc
nàng nhớ đến em, nhắc đến em th́ nàng
nhớ đến tất cả, không trừ một em nào,
và nàng cũng chỉ nghĩ đến các em nàng thôi.
Nhưng khi nàng bắt đầu đánh giá chúng, th́ nàng
phải đặt chúng vào trong cả loại em, cả hàng
em nói chung, so sánh đối chiếu chúng với em
người ta. Do đó đến đây lại phải
nói “những đứa em thông minh và ngoan ngoăn quá!”
chứ không thể nói các [2, tr.270 – 272].
2.
Quan sát những câu sau:
(1)
Tôi đă thông báo với các (/*những[1])
bạn về chủ đề của cuộc hội thảo.
Những (/*các) ai chưa rơ
điểm nào có thể hỏi tiếp. Những/Các bạn
nào muốn tham gia th́ gửi bài cho ban tổ chức
nhưng các (/*những) bạn
nhớ là báo cáo không dài quá 2000 chữ.
Trong
truyện ngắn Ông b́nh vôi,
Phan Khôi nhắc lại câu thơ của Lê Đạt:
(2)
Có những (/*các) người
sống lâu trăm tuổi (Y như một cái b́nh vôi /Càng sống càng tồi /Càng sống càng
bé lại.)
(3)
Ai trong các (/*những) em đă
vẽ bậy lên tường?
(4) Vợ
chồng ngâu anh ơi, chỉ những
(/*các) đi là đi, có mấy
lúc được ở nhà. (Người
gặp hàng ngày, Nguyễn Khải)
(5)
Anh trở về thành phố
lúc này đă bị chiếm đóng với tâm trạng chán
ngán tới cực điểm, những
(/*các) tưởng cách mạng về, cách mạng măi mài
tồn tại ai dè bọn Pháp quay trở lại, những
đơn vị vũ trang cách mạng c̣n non yếu phải
rút ra ngoài để tiến hành cuộc chiến đấu
lâu dài. (Người lính mặc thường phục, Mai
Ngữ, 214, nxb Hà Nội, 1981)
(6)
Những
(/*các)
là đắp nhớ đổi sầu (Tuyết
sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.) (Truyện Kiều)
Xét về vị trí, ở 3
câu đầu ‘các’ và ‘những’ đều có thể
đứng trước danh từ. Trong ba câu (4) – (6) từ
‘những’ có thể đứng
trước vị từ, trước hệ từ là c̣n ‘các’ th́ không. Từ những câu này, chúng ta thấy
sự khác biệt đầu tiên giữa ‘các’ và ‘những’. Trong
các câu (4) – (6), ‘những’ là từ
hư dùng biểu hiện hành vi đánh giá [+NHIỀU] (x.[3])
c̣n ‘các’ th́ không cho nên ở những trường hợp này
không thể thay thế ‘những’ bằng ‘các’.
Trong những ví dụ dưới đây từ ‘những’ cũng đều biểu
hiện hành vi đánh giá [+NHIỀU]:
(7)
Ngoài đường, những (/*các) người là
người.
(8)
Những
(/*các)
mấy trăm người đi biểu t́nh.
(9)
Trời lạnh quá, những (/*các) 7 độ. Trời
nóng quá, những (/*các) 38
độ.
(10)
Nuôi con những (/*các) ước về sau (Trao tơ phải
lứa gieo cầu đáng nơi.) (Truyện Kiều)
(11)
Ngon là ngon như vậy, chứ
c̣n đ̣i ngon những (/*các)
thế nào? (CLV, Những ngày nổi
giận,103)
(12)
Mà có những (/*các) thế
thôi đâu! (Đôi mắt, NC)
(13)
Tất cả những (/*các) cái con người bạc ác ấy.
(NTC)
Trong
câu (13) ‘những’ có thể
đứng trước ‘cái’. Ở đây cái là một yếu tố nhấn mạnh danh từ
đứng ngay sau nó.
Từ
‘những’ ở những cấu
trúc trừu tượng định hướng nghĩa dưới
đây, cặp (A,B) tạo thành một phạm trù khái quát có
nghĩa “rất nhiều A, B”. Ở trường hợp
này cũng không thể thay ‘những’ bằng ‘các’.
-
Chẳng những (/*các) không A mà cũng không B
-
Không những (/*các) chỉ A mà c̣n cả B
-
Những
(/*các) A là A” » nhiều A tới mức
tưởng như chỉ toàn A
-
Những (/*các) A cùng B, như “Những
e cùng thẹn” [9]
3. V́
sao trong câu (1) có những vị trí chỉ có thể chấp
nhận một trong hai từ ‘các’ hoặc ‘những’ lại có những vị trí chấp nhận
cả hai? V́ sao ở câu (2) chỉ có thể dùng ‘những’
mà không thể dùng ‘các’ c̣n ở câu (3) chỉ có thể dùng ‘các’
mà không thể dùng ‘những’?
Cả ba câu (1) – (3), ‘các’ và ‘những’
đứng trước danh từ, phản ánh điều sau
đây: khi dùng ‘các’ hay ‘những’, người nói
đă xác lập một không
gian tâm trí[2] có những thuộc tính số lượng là dấu hiệu về những
phần tử của tập hợp mà ‘các’ hay ‘những’ đề
cập tới. Đó là thuộc tính số lượng của cụm từ đứng
sau ‘các’ hay ‘những’. Ở câu (1) có 4 KGTT (từ đây viết
tắt KGTT ≈ không
gian tâm trí). Cụm ‘các bạn’ đầu tiên được
xác lập trong KGTT (a) ‘[tôi và] tất cả
những người dự cuộc họp’, cụm ‘những
ai’ được xác lập trong KGTT (b) ‘[tôi
và]
tất
cả những người dự cuộc họp c̣n chưa rơ một điểm
nào đó của chủ đề hội thảo’. Số lượng
phần tử của KGTT (b) đă thu hẹp lại so
với KGTT (a). Cụm ‘Những/Các bạn nào muốn …’
được xác lập trong KGTT (c) ‘[tôi
và]
tất
cả những người dự cuộc họp muốn
tham gia hội thảo’. Số lượng phần tử của KGTT (c) đă thu hẹp lại so
với KGTT (a) nhưng khác với KGTT (b) ‘[tôi và] những
người c̣n chưa rơ…’ KGTT (d) được xác lập
trong cụm ‘các bạn nhớ…’ đứng ngay sau từ ‘nhưng’.
Người nói nói với những người trong KGTT (c)
muốn tham gia hội thảo, tức là KGTT đă xác định nên phải dùng từ ‘các’.
Ở
câu (2) từ ‘có’ cho biết KGTT đă tồn tại. Nó được
xác lập là ‘[chúng
ta và]
những
người sống lâu trăm tuổi’. Ở câu (3) KGTT được xác
lập là “[tôi
và] tất cả
những em trước mặt tôi (mà tôi hỏi)”.
Như
vậy, hai từ ‘các’ và ‘những’ có một nét nghĩa chung là đều dùng để
chỉ tất cả mọi đối tượng
trong một KGTT được đề cập tới.
Điểm khác nhau giữa
‘các’ và ‘những’ như
sau:
-
Dùng ‘các’
khi những đối tượng trong KGTT đă xác định.
-
Dùng ‘những’
khi những đối tượng trong KGTT chưa xác định.
Điều này được
thể hiện ở ba câu (1) – (3). Trong câu (1) những
người dự cuộc họp là những người
đă có mặt tức là đă xác định, nên dùng ‘các’. V́ người nói chưa biết chắc chắn, tức là
chưa xác định được những phần tử
của KG ‘những người c̣n chưa rơ chủ đề
hay thể lệ cuộc hội thảo’ nên dùng ‘những ai
chưa rơ’. V́ người nói cũng chưa biết chắc chắn
những
phần tử của KG những người muốn tham
gia hội thảo nên dùng ‘những bạn nào muốn tham
gia’. Trong trường hợp này chúng ta chấp nhận thêm
cả khả năng dùng ‘Các bạn nào muốn tham gia…’ v́ từ
‘nào’
làm
định ngữ cho ‘bạn’ tức là đă xác định
hóa ‘bạn nào’ khiến KG ‘những người muốn
tham gia hội thảo’ trở nên xác định. (Phần
dưới sẽ giải thích rơ hơn điểm này). Ở
KGTT (d), người nói dùng từ ‘các’ khi nói với những
người trong KGTT (c) muốn tham gia hội thảo, tức
là những người đă xác định trong tâm trí ḿnh.
Trong
câu (2), người nói chưa biết tức là chưa xác
định được KGTT ‘người sống lâu
trăm tuổi’ nhưng chắc chắn KG này tồn tại,
từ ‘có’ nêu dấu hiệu
của sự tồn tại này, và KG này là một bộ phận của KG mọi
người, nên phải dùng từ ‘những’. Câu (3) có thể coi là lời
hỏi của giáo viên hay cán bộ phụ trách đội thiếu
niên. Giáo viên biết tất cả những học sinh trong
lớp ḿnh dạy, anh/chị phụ trách đội thiếu
niên cũng biết tất cả những em trong đội
ḿnh. V́ vậy dùng từ ‘các’ mà không dùng từ ‘những’.
4. Giả thuyết:
-
‘Các’ chỉ tất cả những
phần tử của một KGTT xác định.
-
‘Những’ chỉ tất cả những phần tử của
một KGTT chưa xác định.
Một
tất yếu logic là KG xác định có nội hàm rộng
hơn một KG chưa xác định. Từ đây suy ra hệ
quả là ngoại diên của ‘các’ hẹp hơn ngoại
diên của ‘những’. Nói
cách khác, những được dùng rộng răi hơn và tần
số của ‘những’ sẽ lớn hơn tần số
của ‘các’. Có thể giải thích điều này một
cách khác trực quan hơn. Kư
hiệu N là tập hợp ‘học sinh’. Khi
nói ‘các N’ là chúng ta có một tập hợp các phần tử
của N. Có nhiều N khác nhau. Một khi mở rộng (một cách ngôn ngữ)
N bằng cách thêm định ngữ A vào N để thành cụm
từ NA chúng ta lại phải nói ‘những NA’ để chỉ
một tập hợp mà các phần tử là NA. Đây là một tập hợp bộ phận
của N. Có rất nhiều cách mở rộng N
tức là chúng ta có rất nhiều cụm từ NAi
, nghĩa là có nhiều tập hợp bộ phận NAi
của tập hợp N, như học
sinh giỏi, học sinh xuất sắc, học sinh lớp
chuyên Anh, học sinh ngoan, học sinh nam, học sinh nữ,
học sinh chăm chỉ, học sinh chậm hiểu, học
sinh hư, học sinh cứng đầu, học sinh mê
chơi gam, học sinh ngủ gật, học sinh trốn học…và
do vậy cũng rất nhiều cách nói ‘những NAi’
trong khi chỉ có một cách nói ‘các N’. Ấy thế là số
lượng dùng từ ‘những’ sẽ vượt trội
từ ‘các’ rất nhiều. Chúng ta luôn luôn có thể thay thế
các tên gọi học sinh giỏi,
học sinh lớp chuyên Anh, học sinh nữ, học sinh mê
chơi gam…bằng tên gọi
học sinh. Điều này có
nghĩa là trong tâm trí người
Việt th́ nghĩa “tất cả” của từ ‘các’ lỏng
hơn, bao trùm nghĩa “tất
cả” của từ ‘những’.
Điều này cũng phù hợp với quan sát và lư
giải của Bùi Mạnh Hùng: “… những có phạm vi hoạt
động rộng hơn các rất
nhiều. Những có thể thay thế các trong
hầu hết trường hợp,[...] Trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du tỉ lệ này [tức là
tần số của những so
với các, NĐD] là 26 / 4”.
[8]
Về chức năng của
từ ‘những’, theo cách phân tích của Nguyễn Tài Cẩn
[2, tr.
270 – 272] th́
trong câu “Các em nàng, những đứa em thông minh và ngoan ngoăn
quá” lúc đầu dùng ‘các’ v́ “nàng nhớ đến tất cả” sau
đó nàng đánh giá “th́ nàng phải đặt chúng vào trong
cả loại em, cả hàng em nói chung, so sánh đối
chiếu chúng với em người ta. Do đó đến
đây lại phải nói “những…” chứ không thể nói ’các’. Tôi
không nghĩ ‘những’ được dùng để “so sánh
đối chiếu”. Cách phân tích này cho thấy ông cho
rằng hai tập hợp ‘các em nàng’ và ‘những đứa em thông minh và ngoan ngoăn quá’ là
đồng nhất. Tôi đồng ư với Bùi Mạnh Hùng
là “ngữ cảnh giúp ta hạn định phạm vi
của tập hợp” [8]. Câu này trong ngữ cảnh Thạch
Lam dùng th́ đồng
nhất nhưng trong trường hợp khái quát th́ không. V́
có những t́nh huống nếu coi ‘những đứa em
thông minh và ngoan ngoăn quá’ chỉ là một danh ngữ th́ chúng
không hề đồng nhất với ‘các em nàng’. Thực vậy, câu sau đây cũng
chấp nhận được: “Các em nàng, những đứa em thông
minh và ngoan ngoăn quá th́ thành đạt c̣n những đứa
em lăng tử th́ cuộc sống lại bấp bênh.” Rơ ràng là trong
câu này, ‘những đứa em thông minh và ngoan ngoăn quá’
chỉ là một bộ phận của ‘các em nàng’, bộ
phận em nàng c̣n lại là ‘những đứa em lăng
tử’. Nói cách khác, kiểu câu
sau đây chấp nhận
được ‘Các N! Những NA1 th́ x c̣n
những NA2 th́ y’. Tức là NA1,
NA2 chỉ là những bộ phận của N.
Những danh từ riêng
dùng làm ẩn dụ tạo ra KGTT chưa xác định v́ những ẩn dụ, những
truyền thuyết, những ǵ trong truyện dân gian, trong dă
sử…đều là những KGTT chưa xác định.
Trong trường hợp này phải dùng ‘những’: “Xă hội hiện nay thiếu
ǵ những Lư Thông, Chí Phèo, Xuân tóc đỏ, nhưng cũng
không ít những cô Tấm, những Thạch Sanh, Thánh Gióng”.
Do ‘những’ chỉ tất cả những
phần tử của một KGTT chưa xác định
nên có thể đặt ‘những’ trước những yếu
tố phiếm định ai,
ǵ, nào. C̣n ‘các’ th́ không. Khi nói ‘những ai (/ǵ /nào) X’ người
nói coi là tập hợp trong cấu trúc này chưa xác định. Như: “Âu đó cũng là cái phải trả
cho những (/* các) ǵ
mà ta không tiên liệu”.
(14) Đừng
cố gắng nắm giữ những (/*các) ǵ lẽ
ra không c̣n nữa [Tự hỏi ở tuổi này,
người ta c̣n ǵ để nắm níu, để
thiết tha mà phải dùng tóc giả che giấu đi mái
đầu đă xác xơ v́ chống chọi cùng căn bệnh
hiểm?] (TT, 19.8.2007)
(15) Những (/*các) ai đă từng gặp ông [đều
có ấn tượng đó là một con người nhân
hậu]
(16) Họ nói những (/* các) ǵ ấy [tôi
nghe không rơ.]”
(17) Em đi những (/*các) đâu, em
gặp những (/*các) ai, em làm những (/*các) ǵ,
anh không cần biết.
5. Những trường hợp vừa
có thể dùng ‘các’ vừa có
thể dùng ‘những’
5.1. Những ǵ
thấy rơ ngay trước mắt là đă xác định. Do vậy mà ‘những đối tượng ngay trước mắt’
hoặc đang giao tiếp trực tiếp là một điều kiện đủ
để thành một không gian xác
định. Trong những t́nh huống như vậy dùng ‘các’.
Điều này giúp chúng ta giải thích được hiện
tượng có những danh từ chấp nhận cả
hai khả năng dùng ‘các’ và ‘những’ đứng trước
nó để trỏ tất cả. Một nguyên lư nhận
thức: Cái ǵ của ḿnh th́ ḿnh biết,
cũng tức là đối tượng hoàn toàn xác định.
Lúc đó dùng ‘các’. Cái ǵ của người khác, mà có vô vàn
người khác, th́ trong thực tế ḿnh không thể biết
và thấy hết được cũng tức là đối
tượng chưa xác định. Lúc đó dùng ‘những’.
Một số t́nh huống:
- Những bộ phận cơ thể người,
ai cũng có: ngón tay, sợi tóc…Do vậy chấp nhận cả
hai cách nói: các/những ngón tay, các/những sợi tóc…Nhưng nói: “Trong đống
đổ nát ấy, c̣n vương văi những bàn tay những
ngón tay ngón chân.” Đây là những bàn tay những ngón
tay ngón chân của người khác chưa xác định nên
dùng ‘các’ sẽ khó nghe: “Trong đống đổ nát ấy,
c̣n vương văi *các bàn
tay *các ngón tay ngón chân.”
- Những vật dụng, đồ đạc hàng
ngày, ai cũng có, nhà nào cũng có: khăn, áo, mũ, nón, nồi,
niêu, chai, lọ, b́nh, hũ, bát đũa… Chúng ta chấp nhận
cả hai cách nói: các/những chiếc khăn, các/những
chiếc nón,…Nhưng chúng ta nói “Đồ đạc nhà tôi toàn là các
thứ rẻ tiền c̣n trong nhà quan VIP toàn là những đồ
xịn”.
- Với những đặc sản một vùng miền
là những đối tượng xác định, chúng ta
dùng ‘các’, nhưng có những địa phương khác mà
chúng ta chưa biết hết cũng có những sản phẩm
cùng loại, cùng tên. Lúc đó dùng ‘những’. Ví dụ: Nước
mắm vùng này rất nổi tiếng v́ các nhà sản
xuất nước mắm ở đây có bí quyết ủ
chượp mà những nhà sản xuất (nước
mắm) nơi khác không biết.
- Những hiện tượng thời tiết, khí hậu,
những đối tượng thiên nhiên… vừa có thể
là những hiện tượng rất riêng biệt của
một vùng mà cũng có thể nhiều nơi khác cũng
có. V́ vậy cũng chấp nhận cả hai cách nói: các/những
con sông vùng này, các/những trận băo nơi đây
thường đến muộn vào cuối tháng mười…Tuy nhiên những ǵ
đă xác định th́ vẫn thường dùng các: Các
(/*Những) trận băo năm rồi (ở miền Nam)
đều không quá cấp 14.
- Những kiến
thức thiên văn, địa lư, bác vật học cũng do học mà biết mà có, để trở
thành cái chữ của ḿnh. Những danh từ gốc
nước ngoài, tên đơn vị hành chính, những khái
niệm, kiến thức có học mới biết. Mà chữ
để trong bụng. (Có truyện dân gian một
người cởi trần nằm giữa trời
nắng để ‘phơi
sách’ trong bụng.) Từ
bụng ḿnh,
chữ sẽ bật ra trong những ngữ cảnh thích
hợp. Từ đây dẫn tới cách dùng từ ‘các’
để chỉ những địa danh, những khái
niệm trừu tượng, những thuật ngữ khoa
học, những từ vay mượn, những quy
luật, định lư, định luật tự nhiên và xă hội… có học
mới biết, tức là mới xác định. Nhưng
biển kiến thức th́ mênh mông đủ loại, có
hàng loạt những điều con người chưa biết,
chưa xác định. Không ai là ‘thông kim bác cổ’. Ấy
thế là người ta lại phải dùng ‘những’
trước hàng loạt điều ḿnh chưa
biết. Hệ quả là xảy
ra hiện tượng dùng được cả ‘các’
lẫn ‘những’ đứng trước những loại
danh từ này, nhưng thiên về
dùng ‘các’ trước những đối tượng đă
xác định.
Chẳng hạn, “Dim
dốc hết cho nàng những kỉ
niệm ngầy ngà của
ḿnh với người đàn ông yêu dấu” (Dạ Ngân); “Các
cat từng được
xem là nóng, tỉ lệ thực hiện vẫn rất thấp”(TT,
25.6.2005) [cat ≈mă hàng hóa cho thông tin xuất xứ
của hàng hóa, NĐD]; “Việc tuyển CEO của doanh nghiệp này ít nhiều
gây sự chú ư đối với các
nhà head – hunter trên thị trường” (Người Lao Động Online,
01.11.2005); “Cắm sừng
là nghĩa bóng của từ gốc Pháp la cornette: mũ vải trùm đầu của các bà phước, có chóp nhọn
giống như cái sừng…”; “Đây cũng là phương
pháp để kéo những tín
đồ đă nhạt đạo và phạm tội ác trở
lại với Hồi giáo theo quan niệm của Phong trào
Hamas.” (TT, 19.8.2007) “Ngay Trưởng ban Kinh tế Trung
ương Vương Đ́nh Huệ cũng phải đặt
vấn đề “GDP chạy
đâu hết cả rồi?”[...] Người ta
ngạc nhiên về việc trong năm 2012, gần hết các tỉnh thành báo cáo GDP địa
phương tăng trên 10%, trong khi con số GDP chính thức
của toàn quốc chỉ là trên 5%, tức GDP quốc gia
đă bị giảm đến một nửa so với các báo cáo của chính quyền các địa phương.”
(nguồn: Diễn đàn kinh tế mùa thu 9.2013)
Quy tắc ‘những
ǵ thấy ngay trước mắt là đă xác định’
dẫn tới hệ quả là sẽ dùng ‘các’ cho đối
tượng là những người nghe trực tiếp:
Các (/*những) cụ nói ǵ?; Các (/*những) bà tía lia như vậy
chúng tôi không nghe được;
Đối xử với người khác như vậy
rồi một ngày kia các (/*những) người sẽ phải
hối tiếc; Nhưng mà này,
nói vậy nghe thật sướng tai c̣n thực tế lại
khác hẳn, khóa sau các (/*những) ông sẽ lại hứa
những (/*?các) lời có cánh như vậy chứ ǵ?
Những sự kiện xảy ra
trong tương lai là chưa xác định bởi lẽ
người ta không thể biết được chính xác thời
điểm nó xảy ra. Lúc đó dùng ‘những’ th́ dễ
nghe hơn ‘các’: Rồi những người đó sẽ thành
công; Rồi một ngày kia những người đó sẽ
hối tiếc; Rồi những /các ông ấy sẽ lại
hứa những (/*?các) lời có cánh.
Lưu
ư: Trong tiếng Việt ‘ngươi’ là cách nói xem thường một
người nh́n thấy ngay trước mặt hoặc đang nói trực tiếp với
nhau, tức
là một người đă xác định. Do vậy chúng
ta hỏi:
(17)
Các
(/*Những) ngươi làm ǵ vậy?
(18) Các (/*Những) ngươi đến
đây làm ǵ?
5.2. Chúng ta dùng ‘những’ cho một KGTT N chưa xác
định: ‘những
N’. V́ những
từ thay thế này, ấy,
đó, nọ, kia …có chức năng cụ thể hóa danh từ (/ngữ) N đứng
trước nó nên một khi những từ thay thế đứng
ngay sau một N là chúng ta được một KG cụ thể
nên xác định. Lúc này tùy theo cách hiểu này, ấy, đó, nọ , kia…là định ngữ
của yếu tố nào mà chúng ta dùng ‘các’ hay ‘những’. Nói
‘(những N) này’,
‘(những N) ấy’ nhưng
lại nói ‘các (N này)’, ‘các
(N ấy)’...
Ở cách dùng thứ nhất, từ này làm cho danh ngữ ‘những
N’ trở thành
xác định. Ở cách dùng thứ hai, chúng ta dùng ‘các’
để nhấn mạnh tới các tập hợp đă xác
định ‘N
này’.
Do
vậy hai cách nói sau đây
đều chấp nhận được tùy theo ngữ cảnh:
“Phần
lớn những người ấy đều tốt.” và “Phần
lớn các người ấy
đều tốt.”
5.3.
Dùng này, ấy, đó, nọ ,
kia…làm định ngữ cho N biểu hiện một KGTT
chưa xác định là mở rộng nội hàm của N,
cũng tức là thu hẹp ngoại diên của nó theo quy tắc
của logic h́nh thức. Muốn những phần tử của
danh ngữ ‘những
N’ trở thành
xác định th́ chúng ta thu hẹp ngoại diên cũng tức
là mở rộng nội hàm của N bằng cách xây dựng
những định ngữ cho N. Một cách khái quát, khi thêm
định ngữ A cho một KGTT N chưa xác định
chúng ta đă mở rộng nội hàm của N tức là đồng thời thu hẹp ngoại
diên của nó. Giống những trường hợp dùng này, ấy, đó, nọ , kia làm
định ngữ, chúng ta cũng có thể dùng ‘các’ hay ‘những’ đi kèm danh ngữ NA với
hai cách hiểu hoàn toàn tương tự: ‘(những N) A’ và ‘các
(NA)’. Vậy ‘Những
điều mà tôi nghe được rất đáng lo
ngại’
và ‘Các điều mà tôi nghe
được rất
đáng lo ngại’ thể
hiện hai cách nhấn mạnh khác nhau.
(20)
Những (/Các) con chim bay trên trời, những (/các) con cá bơi dưới nước.
(21) Những/(Các) con chim bay
trên trời khó bắn trúng. Những/(Các) con chim đậu
trên cành dễ bắn trúng.
5.4. Những cách dùng ‘các’ không thuận
tai
Hai danh ngữ ‘các N’, ‘những
NA’ đều chỉ
tất cả những phần tử của một KGTT,
c̣n tính xác định hay
chưa xác định của chúng là một phân biệt khá
mờ do yếu tố A không xuất hiện hay xuất hiện
lại là một phân biệt khá tinh tế nên nhiều
người chưa chú ư tới điều này. Mà nghĩa tất cả của từ ‘các’
lỏng hơn của từ ‘những’, nên một khi không muốn nhấn mạnh tới nét
nghĩa tất cả
người viết dễ có khuynh hướng dùng ‘các’ ở
những kết cấu có yếu tố A làm định ngữ
cho danh từ N, nơi lẽ ra phải dùng ‘những’. Kết
quả là tạo ra những cách nói không thuận tai. Hệ
quả của điều này là ở những danh ngữ
chấp nhận cả hai khả năng dùng ‘những’ và ‘các’
như trên đây th́ dùng ‘những’ thường nghe thuận
tai hơn c̣n ‘các’ sẽ khó nghe. Trong những câu dưới
đây đă xuất hiện yếu tố A kèm theo N làm
định ngữ v́ vậy nên dùng ‘những’ chứ không
nên dùng ‘các’:
(23) Xin giới thiệu
chùm ảnh nóng do các (/*những) cộng tác viên của VietNamNet vừa
chuyển về từ Lào Cai. (ViệtNamNet ngày 15.4.2007)] (A = của
VietNamNet)
(24)
Các cán bộ trên đă cấu kết
với nhau đưa vào danh sách tái định cư nhiều
hộ không đủ tiêu chuẩn để chiếm hưởng
quỹ đất dùng cho tái định cư. (TT, 15.3.2007) (A = trên)
(25)
Nhưng
hăy coi chừng, Roy Kean – cựu học tṛ của ngài Ferguson
– vốn rất rành các
(/*những) chiêu tṛ của ông thầy cũ. (SGGP,
29.8.2007) (A = của ông thầy cũ)
(26)
Các
chuyên gia về thời tiết nói nạn lụt và trượt
đất sẽ đe doạ hầu hết 20 tỉnh của
nước này trong mùa mưa từ tháng 11-2002 đến
3-2003. (TT, 02.01.03) (A= về thời tiết)
(27) Hẳn chỉ một ḿnh tôi biết
tin ấy, chứ các báo khác có phóng viên ở Lào Cai đâu?
(NCH, TNCL I) (A= khác)
(28)
Ông (» tổng thống
B. Obama, NĐD) đề tặng cuốn sách Sự táo bạo của hi vọng
cho mẹ và bà ngoại Madelyn Dunham “là các phụ nữ đă nuôi dạy tôi nên người.”
(TTCT, 08.06.2008) (A= đă nuôi dạy tôi nên người)
(29)
Những (/*các)
hồn nhiên được tập hợp (tít báo, NDCN,
29.12.1991)
(30)
Bác sĩ cũng bó tay v́ không thể
kiêm luôn các chuyện như thế được! (TT,
20.11.2007) (A= như thế)
(31) Các
nhà nghiên cứu tại Đại học South California (Mỹ)
đă chứng minh mũi cá mập sử dụng ‘mùi nổi’ (kiểu như ‘âm thanh nổi’) để ḍ t́m những chênh
lệch thời gian – không hơn nửa giây – mà mùi đạt
đến lỗ mũi này so với lỗ mũi kia của
chúng. (TT, 12.6.2010) (A= tại Đại học South California
(Mỹ))
Lưu
ư: Trong
tiếng Việt, có những từ nói lên sự
tồn tại của đối tượng nhưng
chưa xác định. Đó là những động từ ‘xuất hiện’, ‘hiện
ra’…, những từ
‘có’,
‘một’ trỏ sự tồn tại,
những trạng ngữ vị trí. “Ngày xửa ngày xưa có hai vợ
chồng ông lăo đánh cá…”; “Tháng
2 năm Bính Tư (1396), một hôm
khi Từ Thức đến thăm chùa có nh́n thấy một
thiếu nữ tuổi chừng mười sáu, mười
bảy”; Khi
xuất hiện những từ
này liên quan đến một
đối tượng th́ dùng ‘những’. Dùng ‘các’ khó nghe. Ví
dụ: Có những (/*các) đêm về sáng, đợi chờ
nhau dưới mưa; Có những
(/*các)
bài ca không bao giờ quên; Đồ ngu!-
tôi nói- Thôi phóng đi. Có những (/*các) người đến
lạ! Tôi c̣n muốn mắng cho hắn một trận
đích đáng nữa. (Giamilia, 95); Những/?các chấm đen hiện ra ở
phía chân trời…
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban, 2005. Ngữ pháp tiếng Việt.
Nxb Giáo Dục, Hà Nội
2. Nguyễn Tài Cẩn, 1975. Từ loại danh từ trong
tiếng Việt hiện đại. Nxb Khoa học xă
hội, Hà Nội
3. Nguyễn
Đức Dân, 1984, Ngữ nghĩa các từ hư – định
hướng nghĩa của từ, Ngôn ngữ, số 2
4. Nguyễn
Đức Dân, 2016, Logic ngữ
nghĩa các từ hư, nxb Trẻ, TP HCM
5. J.
Fauconnier, 1995, Mental Spaces: Aspects
of Meaning Construction in Natural Language, CUP
6. J.
Fauconnier, 1997, Mappings in Thought and
Language, CUP
7. Cao Xuân Hạo, 1991. Tiếng Việt – sơ thảo
ngữ pháp chức năng. Nxb Khoa học xă hội, Hà
Nội
8. Bùi Mạnh Hùng, 2000, Về một số đặc
trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của ‘những’
và ‘các’. Ngôn ngữ, số 3
9. Hoàng
Phê (chủ biên), 1996, Từ
điển tiếng Việt , Viện Ngôn ngữ học,
Hà Nội
10. Nguyễn Kim Thản, 1963,
1964, Nghiên cứu ngữ pháp
tiếng Việt. Nxb Giáo Dục, tập 1 và tập 2, Hà
Nội
NHỮNG
và CÁC
Từ
khóa: không gian tâm trí; tập hợp xác định;
tập hợp không xác định
TÓM
TẮT
Bài này
dùng khái niệm không gian tâm trí (mental spaces) của J.
Fauconnier để khảo sát những hiện tượng
ngữ pháp của hai từ CÁC và NHỮNG trong tiếng Việt.
Theo
tác giả, hai từ này đều chỉ tất cả các phần tử của một
không gian tâm trí (từ đây:KGTT) được đề
cập tới, nhưng ‘các’ được dùng trong một
KGTT xác định c̣n ‘những’
được dùng trong một KGTT chưa xác định. Hai dấu hiệu quan trọng
nhận biết loại KGTT xác định là: cái ǵ thấy rơ được là
đă xác định, cái ǵ biết
được là đă xác định. Từ ‘các’
không thể đặt trước
một danh ngữ chứa yếu tố phiếm định
ai, ǵ, nào…c̣n ‘những’ th́ có
thể. Đây là một dấu
hiệu nhận biết một KGTT chưa xác định. Từ đó giải thích được
những ngữ cảnh chỉ dùng ‘các’, chỉ dùng ‘những’,
dùng được đồng thời cả hai và những
ngữ cảnh nào th́ dùng được cả hai nhưng
dùng ‘các’ khó nghe hơn.
NHỮNG
và CÁC
Key
words: mental spaces, determined spaces, indetermined
spaces
ABSTRACT
In this
paper, I use the concept of ‘mental spaces’ of J. Fauconnier to study the
grammatical phenomena of CÁC and NHỮNG in Vietnamese. I argue that
both ‘các’ and ‘những’ are used to show all elements of a mental space.
While ‘các’ is used in a determined mental space, ‘những’ is used in an
undetermined mental space. Two indicators of determined mental spaces are
visible and known things. While ‘các’ cannot be put before a noun phrase that
contains indifferent elements such as ai, ǵ, nào…, it is
possible to do so with ‘những’. This is a signal to recognize an
undetermined mental space. This allows us to understand contexts where only ‘các’
should be used, contexts where only ‘những’ should be used, contexts
where either word can be used, and contexts where either word can be used but ‘các’
is less natural.
Thông tin về tác giả
Nguyễn Đức Dân, Giáo sư, tiến
sĩ, (đă nghỉ hưu)
Địa chỉ: 118 đường 3/2,
quận 10, TP HCM
(Trung tâm Hà Đô, J1 19.08)
Đt: 0919 42 02 74; ngducdan36@gmail.com