Ngữ
nghĩa của cặp từ hư
NguyễnĐứcDân
1.Cấu
trúc nhân quả: Lô gích ngữ
nghĩa của từ TH̀[1]
1.1. Những quan điểm về từ Th́
1.1.1. Th́ – một từ có nhiều chức năng
Hầu
hết các nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt
đều coi từ “th́” có
nhiều chức năng, trong đó có chức năng liên từ, trợ
từ. Một vài tác giả nói tới những chức
năng khác.
1.1.1.1. Chức
năng liên từ (c̣n gọi là kết
từ)
Hoàng
Tuệ [87], Nguyễn Kim Thản [76], Hoàng Trọng Phiến
[68], Diệp Quang Ban [2], Trương Văn Ch́nh &
Nguyễn Hiến Lê [10],
Trương Văn Ch́nh [9], …coi “th́”
là một liên từ.
Nguyễn
Kim Thản viết: “Trong các liên từ tiếng Việt, hai
liên từ được dùng nhiều nhất là mà vàth́…
Liên từ “th́” chỉ
biểu thị quan hệ qua lại…Liên từ “th́” có tác dụng quan trọng
hơn nữa bởi v́ một ḿnh nó đặt ở
đoạn đầu câu chỉ kết quả đă
đủ để biểu thị quan hệ điều kiện kết
quả.” [76, 400-402]
Lê
Văn Lư cũng coi “th́” là
một liên từ nhưng dùng một tên khác: phụ từ tập hợp.Phụ
từ này “nối mệnh đề chính với mệnh
đề tùy”. Mệnh đề tùy này có thể chỉ
thời gian (Khi tôi đi ra th́
nó đi vào), có thể chỉ
giả sử (Nếu sau này bạn muốn nên người
hữu ích, th́ bây giờ
bạn phải chịu khó học tập) [LVL, 1972, 130]. Câu “Tôi đến th́ anh
hẵng đi” được coi là sự rút gọn
của câu điều kiện “Nếu
tôi đến th́ anh hẵng đi” [9:165]
Hoàng
Tuệ coi “th́” là “tiểu từ giới
trí”(particule médiane), một tiểu loại của liên
từ [87:536]. Chức năng
cơ bản của nó là tham gia tạo câu phức kiểu “Nếu M1th́
M2”, kết nối mệnh đề chính M2
với mệnh đề
phụ M1 chỉ
điều kiện, giả thuyết, trường
hợp, thời gian hay không gian.
Diệp
Quang Ban [2:212] viết: “Trong
câu ghép có quan hệ điều kiện/ giả
thiết - hệ quả …
Vế chỉ hệ quả được mở
đầu bằng kết từ th́. Cặp kết từ nếu ..th́c̣n có thể nêu lên quan hệ
đối chiếu.” Sau này Diệp Quang Ban đă từ
bỏ quan niệm hai từ th́,
mà là kết từ. Khi bàn về quan hệ từ, tác
giả viết “nếu,
nếu mà, hễ…diễn đạt quan hệ
điều kiện (thường kéo theo từ th́ ở đầu vế câu
sau)”; “mà diễn đạt
một số quan hệ không thật xác định, đó
có thể là…quan hệ mục đích, quan hệ hệ
quả, quan hệ giả thiết (…thường kéo theo
từ th́)” [3:550-551]. Và khi đề cập
đến các cặp từ phản ánh quan hệ
điều kiện-hệ quả, mục đích , nguyên
nhân – hệ quả của câu ghép chính phụ, như “nếu…th́, hễ… th́, để
…th́, v́… mà, tại …mà…” tác giả chú thích “hai tiếng mà, th́ ở đây là trợ từ.” [3:305]
1.1.1.2. Chức năng trợ từ hay là phụ từ đối
lập
Ngoài chức năng liên từ,Nguyễn Kim
Thản c̣n coi “th́” là một
trợ từ. Theo tác giả, tiếng Việt có ba trợ
từ :là, th́ và mà. [76:403]. Tác giả Lê Văn Lư, Trương Văn Ch́nh
c̣n cho “th́ là một phụ từ đối lập (Anh hát hay
quá, tôi th́ không biết hát; Ngoài th́ là lư song trong th́ là t́nh). Trương Văn
Ch́nh và Nguyễn Hiến Lê cho
rằng “Ta thường dùng
trợ từ th́ (thời) để
phân cách bổ từ thời gian với chủ đề
(như: “Sau khi Tây Sơn dứt họ Trịnh th́ bọn cựu thần nhà
Lê ở ngoài Bắc, kẻ ra pḥ tân trào, người đi
ẩn lánh các nơi”), với chủ từ (như: “Lúc tôi
đến th́ anh ấy
đi rồi” ), với thuật từ (như: “Hùm thiêng khi
đă sa cơ th́ cũng
hèn”) [10:563]. Hai ông cũng dùng thuật ngữ trợ từ với ư nghĩa của liên từ: “ta thường
dùng trợ từ th́ (thời) để
phân tách bổ từ giả thiết với ư chính”.
Những ví dụ được nêu cho thấy điều
đó: “Việc ấy, giá mà anh không làm th́ tôi cũng làm”; “Máu tham hễ thấy hơi
đồng th́ mê”; “V́ chàng thiếp phải ṃ cua.
Ví như thân thiếp th́ mua ba đồng” (cd).
Sự đối lập tạo ra ư
nghĩa so sánh. “So sánh hai sự vật hay đem hai sự
vật đối với nhau, ta thường dùng trợ
từ th́ đặt sau tiếng
trỏ sự vật ấy.” [10:607]:
“Trai thời trung hiếu làm
đầu, Gái thời tiết hạnh làm câu sửa ḿnh”;
“Bà có ruộng th́ ít mà có bạc th́ nhiều” (HBC)
1.1.1.3. Chức năng tạo ra phụ
từ kép
Từ
th́ kết hợp với
một số từ khác thành
“những phụ từ kép”[LVL,
1972, 132]. Ví dụ: Phần
th́…phần th́…; Khi th́… khi th́…; Vậy th́…; Thế th́…
1.1.2. Th́để đánh dấu
đề - thuyết
Không
dùng thuật ngữ đề-thuyết, nhưng
Trương Văn Ch́nh viết: “từ th́ phân cách phần chủ ngữ được
nêu với phần c̣n lại của câu”: “Sức th́ hai
người ngang nhau” ; “Gạo th́ có gạo nếp, gạo
tẻ” [9:166]. Hoặc:
“Từ th́ phân cách bổ
ngữ thời gian với phần c̣n lại của câu”:
“Lúc tôi đến th́ Giáp
đi rồi”; “Hôm nay th́ anh ấy khá rồi”; “Bao giờ th́ Giáp đi?” [10:131].
Cao
Xuân Hạo quan niệm: “Th́
là một từ chuyên biệt chỉ
đánh dấu đề-thuyết.” [44:124]. Quan niệm cực đoan này đă
được mềm bớt đi trong công tŕnh do Cao Xuân
Hạo chủ biên sau đó: “Th́
là một từ chủ
yếu dùng để phân giới đề-thuyết”
[47:25]. Với từ “chủ yếu”, nhóm tác giả
đă tránh được những trường hợp
từ th́ hiển nhiên không
được dùng để đánh dấu
đề-thuyết, như những câu được bắt
đầu bằng từ th́:
Th́vào
chơi nói chuyện vậy. (NCH)
Th́
đồng chí cứ thử xem đây! (TASS được quyền tuyên bố , tr.24)
Th́cứ
ra nằm ngoài giường kia mau! (NH)
Th́anh
có làm ǵ em đâu. (NNTĐ)
Tuy nhiên Cao Xuân Hạo vẫn
phủ nhận tư cách liên từ của th́ và phủ nhận câu phức. Ông viết “Trong
logic học, tất cả các quan hệ được biểu
trưng bằng liên từ (conjunctions và disjunctions – quan hệ “và” và quan
hệ “hoặc”) đều chỉ mối quan hệ đẳng
lập giữa hai mệnh đề hay hai thành tố của một mệnh đề.
Nhưng trong ngôn ngữ học truyền thống người
ta đă thêm một thứ “liên từ phụ thuộc” (thật
ra là những giới từ cải trang)”.Ông c̣n viết “Nói tóm lại, “câu phức” là sản
phẩm của một ảo giác không thể nào dung thứ
được” [46:4-5].
Đây là một ngộ nhận
đáng tiếc. Những người ít nhiều hiểu
biết về lô gích đều biết rằng tất cả
các tài liệu về lô gích đều nói tới tác tử kéo theo, c̣n gọi là liên từkéo theo (É,
̃,
implication hay conditional). Và đều
nói rằng tác tử này tương ứng với cặp liên từ “if …
then” của tiếng Anh. Ngay cả ở công tŕnh Semantics của John Lyons,
trong mục §6.2 giới thiệu về các phép tính mệnh
đề cũng nhắc tới điều cơ bản này. Tất nhiên, trong lô gích có phép
toán chuyển quan hệ kéo theo thành quan hệ tuyển hoặc
hội và quan hệ phủ định (Xem dạng thức
(Ic), mục §1.2.1.3.). Nhưng điều đó không có
nghĩa là không có quan hệ kéo theo trong lô gích và càng không có
nghĩa là không có cặp liên từ nếu …th́ …trong ngôn
ngữ tự nhiên.
1.1.3. Ngữ nghĩa của từth́
Trần
Trọng Kim [53,mục §3.2.1.] tuy thấy từ th́ “là
một tiếng tự nó không có nghĩa” nhưng tác
giả cũng lại thấy “tiếng th́ làm cho người ta chú ư vào tiếng (hay
mấy tiếng) đứng trước, (đó là) a)
lặp lại: “Nói th́ ai nói
cũng được”, “Mua th́
mua đi cho xong”; b) đối nhau: “Mày th́ gầy, nó th́ béo”
Trương
Văn Ch́nh và Nguyễn Hiến Lê có những nhận xét khá
tinh tế về cách dùng từ th́.Hai ông phân biệt [10:603]:
(1) Anh
bán bao nhiêu?
(2) Bao
nhiêu th́ anh bán?
(3) Bao
nhiêu mà anh bán?
Dù
bán rồi hay chưa, muốn biết giá ta cũng có
thể dùng câu (1). Ta dùng câu (2) khi chưa bán và dùng câu (3) khi
đă bán rồi.
Các
từ th́, mà trong hai câu trên
được Trương Văn Ch́nh gọi là từ hư. Từ th́
trong câu (2) trỏ quan hệ điều kiện-kết
quả “Nếu
được bao nhiêu th́
anh bán?”, c̣n trong câu (3) từ mà
lại trỏ quan hệ nguyên nhân- kết quả. Cũng
vậy câu “Tiền của nó th́ nó uống rượu,
mặc kệ nó” cũng biểu hiện quan hệ
điều kiện-kết quả [9:161].
1.2.Lô
gích ngữ nghĩa của từ “th́”
1.2.1. Th́là
một liên từ:Hàm ư ngôn ngữ trong câu ghép “nếu
…th́”
Trong mục này chúng ta xét những
hàm ư độc lập với ngữ cảnh trong câu chứa
cặp liên từ biểu hiện quan hệ điều kiện-kết
quả “nếu …th́”. Những
hàm ư này khiến một câu có thể có một hành vi ngôn ngữ (HVNN) gián tiếp xác định,
như thề bồi, khuyên can,
cảnh báo, đe dọa, cấm đoán, khẳng định
…
1.2.1.1.
Th́ biểu hiện kết
quả trong quan hệ điều kiện - kết quả
Liên từ th́ kết hợp với liên từ
nếu trong cấu trúc đầy
đủ “nếu A th́ B”, ở đó nếu đánh dấu điều
kiện A c̣n th́ đánh dấu
kết quả B.
Ví dụ: “Nếu nó có tính tắt mắt
th́ tao mất nhiều lần
rồi” (NCH, Mất cái ví);
“Nếu mày bán mảnh đất hương hỏa của
ḍng tộc th́ cầm dao đâm chết tao đi đă.”
Từ nếu có thể được
thay bằng liên từ khác: bao
giờ, giá…(tất nhiên tạo ra những khác biệt về
sắc thái nghĩa)
“Bao giờ cây lúa c̣n bông
Th́
c̣n ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn” (cd)
“Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn th́ con chả dám kêu” (NCH)
Từ nếu cũng có thể được rút gọn.Ở
những câu dưới đây, thêm từ nếu trước phần điều kiện,
ta vẫn được những câu đồng nghĩa.Chẳng
hạn, “Không nghe lời ta th́
rồi sẽ biết.” (CCPSĐTV)
Û
“Nếu Không nghe lời ta th́ rồi sẽ biết.”; “[Bẩm
cụ, từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại
sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế,] con có dám nói gian th́ trời chu đất diệt, bẩm
quả đi ở tù sướng quá” (NC, Chí Phèo) Û
[…] “Nếu con có
dám nói gian th́ trời chu đất diệt […]”; “Ai cũng im th́ xă hội loạn
mất” (MVK) Û “Nếu
ai cũng im th́ xă hội loạn mất”; “Chẳng chóng th́ chầy” Û “Nếu chẳng chóng th́ chầy”;
“Sinh con đầu ḷng chẳng gái th́ trai” Û “[…] nếu chẳng (là) gái th́ (là)
trai”.
1.2.1.2. Quan hệ nhân quả
1.2.1.2a.
Nhiều hiện tượng, trong tự nhiên cũng
như trong xă hội, thường có quan hệ với nhau.
Những nhà nghiên cứu phương Tây đă phân chia các
câu ra
làm nhiều kiểu thể
hiện những quan hệ khác nhau: nguyên nhân – kết quả
, điều kiện – kết quả , điều kiện
phi hiện thực (irreal condition), thời gian-biến cố
và sự khẳng định tổng quát (time-event &
universal assertion). Tôi cho rằng
nhữngkiểu quan hệ khác
nhau trên đây có một đặc điểm chung mà chúng tôi gọi là quan hệ nhân quả, một quan hệ
bao chứa những quan hệ
trên.
Hai
hiện tượng x và y có quan hệ nhân quả là khi xảy ra hiện tượng
x th́ sẽ xảy ra hiện tượng y . Nghĩa là:
(I)
x̃y
Nói
cụ thể hơn: Nếu x
và y là những hiện
tượng có nhiều trạng thái th́ khi xuất hiện x
ở trạng thái A sẽ
xuất hiện y ở
trạng thái B, c̣n khi xuất hiện x ở trạng thái C
sẽ xuất hiện y ở trạng thái D… Ví
dụ: x biểu hiện
tuổi tác, ở đó A = tuổi trẻ, C = tuổi già; y biểu hiện t́nh
trạng thể lực, ở đó: B = khỏe, D = yếu, hoặc y biểu hiện màu tóc,
ở đó: B = tóc đen, D =
tóc bạc. Chúng ta sẽ có quan hệ: “Nếu A th́ B”
như: Nếu trẻ th́ khỏe; v́ trẻ nên khỏe;
hễ trẻ là khỏe, cứ trẻ là khỏe; và nếu
trẻ th́ tóc đen; v́ trẻ nên tóc đen; hễ trẻ
là tóc đen, cứ trẻ là tóc đen, “nếu C th́ D”
như: nếu già th́ yếu; v́ già nên yếu; hễ già là
yếu, cứ già là yếu; và nếu già th́ tóc bạc; v́
già nên tóc bạc; hễ già là tóc bạc, cứ già là tóc
bạc…
1.2.1.2b. Cấu
trúc ngôn ngữ. Quan hệ này, trong tiếng Việt
được thể hiện ở các loại câu ghép, câu phức và chúng thành các
lập luận:
- nguyên
nhân – kết quả (đề cập tới những
sự việc đă xảy ra):
V́ chăm học nên nó
rất giỏi
- điều
kiện – kết quả (đề cập tới
những sự việc chưa xảy ra): Nếu chăm học th́
nó sẽ rất giỏi; Bao
giờ A th́ [bấy
giờ] B
- quy
luật nhân quả (đề cập tới hiện
thực đă từng xảy ra hoặc đề cập
tới ḷng tin về sự việc tất yếu xảy
ra): Khi có quyết tâm [th́/ là] chúng ta sẽ thành công;
Khu này, hễ trời mưa
là đường lại
ngập; Hễ em nào chăm
học là em đó sẽ
giỏi; Cứ vào dịp
lễ tết là lại
lắm tai nạn giao thông;
Động có khách là nó
quấy; Cứ thấy anh là nó khóc…
- giả
định – kết quả (đề cập tới
điều kiện-kết quả phi thực: giả
định về những điều trái với sự
việc đă xảy ra): Giá
chăm học ngay từ đầu th́ con đâu có trượt…
Có thể rút gọn liên từ và
thường là liên từ thứ nhất, trong những
cấu trúc ngôn ngữ này:
(a) [Nếu] Tao mà ra tay th́ gạo xay
ra cám.
(b) [Giá] Bà mà
được một cái đệm bông gạo th́ hết
cả đau lưng.
(c
) Làm anh thật khó, nhưng mà
thật vui,
[
nếu] Ai yêu em bé,th́ làm được
thôi.
(d)
Tuy rằng áo rách tày sàng, [nhưng nếu]
Đủ
đóng đủ góp với làng th́
thôi.
Vế
thứ nhất có thể được thay thế bằng
một đại từ:
(e)
[Nếu]Thếth́ con biết
rồi. (NH)
Cả
cấu trúc “nếu … th́” cũng có thể chêm trong một cấu
trúc khác:
(g)
Mà [nếu] có biết [th́ cũng ]không bao giờ mụ ta nói với tôi. (LL)
“ xmà P th́ Q” ¬x[không
P th́ thôi chứ nếu X] mà P th́ Q . Ví dụ: “Tôi đă làm th́…” ¬ Nếu tôi không làm th́
thôi chứ nếu đă
làm th́…
(h) Tha
ra th́ cũng may đời/ Làm ra mang tiếng con
người nhỏ nhen (ND) » (Nếu)
Tha ra th́ cũng may đời/(Nếu) Làm ra (th́
lại) mang tiếng con người nhỏ nhen
1.2.1.2c. Lưu ư:
1) Những câu trên
đều thể hiện quan hệ nhân quả nhưng
chúng không hềđồng
nhất với nhau.
Ví
dụ: Nghĩa của câu “V́ chăm
học nên nó rất
giỏi” khác hẳn nghĩa
của câu “Nếu chăm học th́
nó sẽ rất giỏi”. Tương tự, nghĩa
của những cặp câu dưới đây cũng khác
nhau: “Hễ nó đến là tôi đi” và “V́
nó đến nên tôi đi” ;
“Cứ thấy anh là nó khóc” , “Mỗi lần trông
thấy anh, y như rằng nó khóc” và “V́ thấy anh nên nó
khóc”; “Động có khách là nó quấy” và “V́ có khách nên nó quấy”…
Cho
nên, chớ v́ thấy hai câu “Hễ
nó đến là tôi
đi” và “V́ nó đến nên tôi
đi” khác nghĩa nhau mà vội kết luận là câu
đầu không thể hiện quan hệ nhân quả. Câu
đầu vẫn đáp ứng định nghĩa về
quan hệ nhân quả : “Khi xảy ra x (= nó đến)
th́ sẽ xảy ra hiện tượng y (= tôi đi)”.
2)
Định nghĩa trên đây (§1.2.1.2a.) không hề nói
rằng x là nguyên nhân duy
nhất của hiện tượng y. Một người bị ghét (y) có thể v́ người đó nói dối (x1), nói bậy (x2), có thể v́
người đó nói năng xách mé kiêu căng (x3), có thể v́
người đó hay gây bè cánh (x4),
có thể v́ người đó tham nhũng lại hay
thuyết giảng đạo đức (x5) … Vậy th́, trong một câu phức
hợp có thể chứa
đựng nhiều quan hệ nhân quả. Câu “Cứ
thấy anh là nó khóc, v́ nó nhớ đến bố”
phản ánh những quan hệ nhân quả sau: Sự
xuất hiện của anh làmnó nhớ đến bố: “Cứ thấy anh là nó nhớ đến bố”
(thấy anh ̃nhớ
bố ). Nhớ bố nó khóc: “V́ nhớ bố nên nó khóc” (nhớ
bố ̃
khóc
). Vậy th́ sự xuất hiện của “anh” làm cho nó khóc
đă phản ánh quan hệ
nhân quả: “Cứ thấy
anh là nó khóc” (anh ̃ khóc)
. Quan hệ này được h́nh thành thông qua hai quan hệ
nhân quả khác:
(thấy anh ̃nhớ
bố) Ù(nhớ bố ̃
khóc);
hoặc viết theo cách khác:
(thấy anh ̃(nhớ
bố ̃
khóc))
3) Những quan hệ nhân quả
này được cộng đồng xă hội chấp nhận.
Chúng trở thành những lư lẽ làm căn cứ cho những
lập luận trong giao tiếp và thường được thể hiện thành những tục ngữ.
4) Phép kéo theo trong lô gích là một
khái niệm cơ bản. Nó phản ánh quan hệ nhân quả.
1.2.1.3. Cấu
trúc ngôn ngữ của những hiện tượng có quan hệ
nhân quả
1.2.1.3a. Quan hệ kéo
theo và sự suy luận
Từ cấu trúc lô gích (I) dẫn
tới những cấu trúc ngôn ngữ : Nếu … th́…; V́ … nên…; Bởi v́…nên…; Do … mà..; Khi… th́…; Hễ …th́/là…; Cứ … là…;
Động … là….
Những cấu
trúc trên có nhiều biến thể khác nhau.
Trong giao tiếp, con
người luôn luôn có nhu cầu
suy luận, lập luận. Suy luận theo lô gích và suy
luận theo những đặc thù của ngôn ngữ tự
nhiên. Chúng là cơ sở cho những
lối nói có hàm ư và những HVNN gián tiếp.
Quan hệ
kéo theo:
(Ia) Nếu x th́y (Tức là: x̃y)
Quan hệ (Ia)
tương đương một cách lô gích với (Ib), (Ic):
(Ib)
Nếu không y th́ không x (Tức là: (x̃y)Û (~ỹ ~x))
(Ic)
Không x hoặc là y
(Tức là: (x̃y)Û (~x ) Úy))
Như vậy,
từ quan hệ (Ia) chứa phép kéo theo, có thể chuyển
về quan hệ tương đương (Ic) chứa
phép tuyển. Ví dụ:
(Ia) Các em chú ư, nếu không giữ im lặng sẽ
phải ra khỏi lớp.
Câu (Ia) đồng nghĩa với:
(Ic) Các em chú ư, hoặc là
giữ im lặng hoặc là sẽ phải ra khỏi
lớp.
Có
hai loại suy luận: trực tiếp và gián tiếp. Suy luận trực tiếp là suy luận một tiền
đề. Từ một tiền đề suy ra ngay
kết đề. Suy luận gián tiếp là suy luận hai tiền
đề. Từ hai tiền
đề mới suy ra được kết đề. V́
vậy, trong lô gích học truyền thống phép suy luận gián tiếp c̣n
được gọi là phép tam
đoạn luận. Hai tam đoạn luận hay dùng
nhất nên quan trọng nhất trong lô gích mệnh
đề là modus ponens và modus tollens.Tiếp đến
là tam đoạn luận giả định HS (hypothetical
syllogism), c̣n gọi là tam đoạn luận bắc cầu,và tam
đoạn luận tuyển DS
(disjunctive syllogism).
(MP) modus ponens: (( x̃ y) Ù
x) ̃ y
(“nếu có x th́ có y” và “có
x”. Vậy th́: “có y”. Ư nghĩa của phép suy luận này là:
Trong quan hệ kéo theo th́ x là điều
kiện đủ của y. Có x là có y.) Ví dụ:
“Ai chuyên cần người đó sẽ giỏi. Ba chuyên
cần lắm.Thảo nào, Ba giỏi khác thường.”
(MT)
modus
tollens: (( x̃ y) Ù
~ y) ̃
~ x
(“nếu có x th́ có y” và
“không có y”. Vậy th́: “không có x”. Ư nghĩa của phép suy
luận này là: Trong quan hệ kéo theo th́ y là điều
kiện cần của x.
Không có y là không có x.) Ví dụ: “Nếu đủ
tiền anh ấy sẽ mua một căn hộ. Hiện
anh ta vẫn chưa mua nổi một căn hộ.
Nghĩa là anh ấy vẫn chưa đủ tiền.”
Tamđoạn
luận giả thiết,
viết tắt là HS:
(HS) [(x ̃ y) Ù (y ̃z ) ] ̃( x̃ z)
Tam đoạn luận tuyển, viết
tắt là DS:
(DS) [( xÚ y) Ù
~ x)] ̃y, cũng tức là [(
x Ú
y) Ù
~ y)] ̃
x
Phép suy luận MT có thể xuất
hiện dưới dạng t́nh
thái. Ởtiếng Việt,
ta có:
(MT1) “nếu
có x th́ có y” và “không muốn có y”. Vậy th́: “đừng x/ khôngnên
x”. » (MT1) ((
x̃ y) Ù
~muốn y) ̃
đừng x / không nên x
Ví dụ: “Nếu sống buông thả,
bạn tốt sẽ xa lánh. Ai không muốn bạn tốt
xa lánh th́ (người đó)
đừng sống buông thả.”
(MT2) “nếu có x th́ có y” và “không có thể y”. Vậy th́: “phải không có x”, tức là “không thể x”.»
(MT2) ((
x̃ y) Ù ~có thể
y) ̃ (phải ~ x)/(không thể x)
Ví dụ: “Bỏ
đi hết thế này th́ ai giúp tôi làm bếp? Bữa nay
rất đông khách, cần có người giúp tôi làm
bếp. Do vậy, không thể bỏ đi hết như vậy được.”
“Trong
ngôn ngữ tự nhiên, loại câu nhân quả “Nếu
x th́ y”,
“V́ x nên y”
… có thể được hiểu x đồng thời là điều kiện
đủ của y (x̃y) đồng thời là điều kiện cần
của y (~x̃
~y)
” [25:238]. Có thể giải
thích điều này như sau: V́
(x ̃ y) Û (~y ̃ ~x), nên trong phép
kéo theo x ̃ y nếu x
chỉ có hai khả năng x hoặc ~x th́ từ ~x
sẽ suy ra ~y. V́ nếu trái lại, tức là ~x ̃ y, hóa ra y luôn luôn
xảy ra độc lập với x, dù có x hay không có x.
Vậy th́ trong trường hợp này có một quy tắc về hàm ư sau đây: ((x ̃ y) Ù
~x) có hàm ư là ~y. Nói cách khác, trong trường
hợp chúng ta hiểu xlà điều kiện đủ duy
nhất của y.Kết
quả là chúng ta có tam đoạn luận MV
đặc thù của ngôn ngữ tự nhiên:
(MV) ((
x̃ y) Ù
~x) ̃ ~y
Tức
là: “nếu có x th́ có y” và “không có x”. Vậy th́: “không có y”. Điều này cũng có nghĩa là câu “không
có X (th́) Y”sẽ có hàm ư “X th́ không Y”.
Ví dụ: 1) “Không có đàn bà, nhà cửa
thế đấy” (KL,Vợ
nhặt)
2) “Bao giờ cho chuối có cành/ Cho
sung có nụ cho hành có hoa/ Con chim bay vụt qua nhà/ mà biết
đực, cái th́ ta lấy ḿnh.” (cd) Không có chuyện chuối có
cành, sung có nụ , hành có hoa. Và cũng không thể biết
được là chim đực hay chim cái nếu thoáng thấy
nó bay vụt qua. Do vậy, chẳng bao giờ có chuyện
ta lấy ḿnh!
(MV1)
“Nếu có x th́ có y” và “không muốn x”.Vậy th́ “đừng y/ không nên y”. Tức là: ((
x̃ y) Ù
~muốn x) ̃ đừng y/ không nên y
Ví dụ:
“Muốn mạt vận th́ mới dính vào ma túy. Con muốn
thành đạt, đúng không? Vậy đừng có dại
mà dính vào ma túy.”
1.2.1.3b. Phương pháp khái quát để xác định hàm ư
trong câu ghép có từ “th́”
Hàm ư của những câu ghép, ở đó “th́” giữ chức năng liên
từ, hầu như đều có thể được
xác định theo một phương pháp khái quát. Đây là
những hàm ư ngôn ngữ v́ chúng độc lập với
ngữ cảnh. Chính những sơ đồ suy luận
MT, MT1, MT2, MV, HS là cơ
sở lô gích cho những
lối nói có hàm ư vàcho các
HVNN gián tiếp thề bồi, khuyên can, cảnh báo, đe dọa, cấm đoán,
khẳng định …
Nếu
một hành vi tại lời A
dẫn tới một hành vi tại lời khác là B th́ ta nói
hành vi A có HVNN gián tiếp là B, hay B là HVNN gián tiếp của
A [26]. Theo nghĩa này, những câu trên đây nói riêng và
tất cả những câu nào có hàm ư thể hiện một
hành vi ngôn ngữ đều là những câu có HVNN gián
tiếp.
Trước
hết, chúng ta lưu ư rằng trong câu ghép “Nếuxth́y”,
có thể rút gọn từ “nếu”. Điều này đă
được nhiều nhà nghiên cứu nhắc tới. Do
vậy, nhiều câu ghép vắng liên từ “nếu” nhưng vẫn biểu hiện quan hệ
lô gích “x ̃ y”.
Chẳng hạn, đó là loại câu “Có x th́ mới y”.Chúng ta vẫn có thể
vận dụng những công thức nêu ở mục trên
để xác định hàm ư cho những câu loại này.
Chúng ta minh họa
phương pháp xác định hàm ư này qua một số ví dụ.
(1) Tôi mà nói dối
th́ tôi làm con cho anh.
Bước
1:
Câu đă cho có cấu trúc “nếu x th́ y”, tức là: x ̃
y
(1) Û
(1b) Nếu tôi nói dối th́ tôi
làm con cho anh.
Ở câu trên, x = tôi nói dối; y = tôi làm con cho anh
Bước
2:
Trong thực tế tôi không
phải là con anh (và thôngthường, ai cũng phải giữ
thể diện, không muốn làm con cái, tôi tớ người
khác). Nói khác đi, y là một điều sai. Tức là ta không có y, hay là có ~ y.
Bước
3: Kết hợp những điều
có được từ bước 1 (x ̃
y) và bước 2 ( ~y),
ta được:
(x̃
y) Ù( ~y)
Điều này hội
đủ hai tiền đề
của phép suy luận MT. Do đó suy ra kết đề
~ x = Tôi không nói dối.
Đây là hàm ư của câu (1).Đó là điều cần chứng
minh.
Chúng ta áp dụng
thao tác 3 bước trên đây để xác định hàm
ư của các câu (2) – (4) dưới đây :
(2) Thả hết ra th́ c̣n mặt
mũi nào. (NMT)
Bước
1:
Câu (2) có cấu trúc “nếu x
th́ y”, tức là: x ̃
y
(2) Thả hết ra th́ c̣n
mặt mũi nào. ÛNếu
thả hết ra th́ c̣n mặt mũi nào.
Ở câu trên, x = thả hết ra; y = c̣n mặt mũi nào = (chúng ta) sẽ mất thể
diện.
Thật
vậy, y = “c̣n mặt mũi nào” là một câu
chất vấn. Mà chất vấn để bác bỏ. Vậy
y = “(chúng ta) không c̣n mặt mũi nào”. Mà bác bỏ yếu tố
phiếm định là bác bỏ tất cả.[§1.2.
chương 1]. Tức là chúng
ta sẽ mất hết thể diện.
Bước
2:
Trong thực tế không ai muốn mất hết thể diện. Tức
là không muốn y
= “~muốn y”.
Bước
3: Kết hợp những điều
có được từ bước 1 (x ̃
y) và bước 2 ( ~muốn
y), ta được: (x ̃
y) Ù (~muốny)
Vậy là hội
đủ hai tiền đề của phép suy luận MT1.
Do đó suy ra kết đề “đừng x” / “không nên x”. Kết đề
này là một lời khuyên “không nên thả hết ra”.
(3) Không nghe lời
ta th́ rồi sẽ biết tay ta.
(CCPSĐTV)
Bước
1:
Câu đă cho có cấu trúc “nếu x th́ y”, tức là: x ̃
y
(3) Không nghe lời ta th́ rồi sẽ biết tay ta
.ÛNếu không nghe lời ta th́ rồi ngươi sẽ biết tay ta.
Ở câu trên, x = (ngươi) không nghe lời
ta; y = ngươi sẽ biết
tay ta.Dễ chấp nhận
rằng, “ngươi sẽ biết tay ta” là một lời
đe dọa đại để
như ta sẽ làm ngươi
khốn khổ, điêu đứng…Vậy y = ngươi sẽ bịkhốn khổ,
điêu đứng.
Bước
2:
Trong thực tế không ai muốn
bị khốn khổ, điêu
đứng. Tức là “ ~muốn
y”.
Bước
3: Kết hợp những điều
có được từ bước 1 (x ̃
y) và bước 2 (~ muốn
y), ta được: (x ̃
y) Ù (~ muốn
y)
Vậy là hội
đủ hai tiền đề
của phép suy luận MT1. Do đó suy ra kết đề
“đừng x”, tức là:
“đừng không nghe lời ta”.
Nếu hiểu “~
muốn y” dẫn đến “không thể để xảy
ra y” bằng mọi cách, th́
bước 2 có nghĩa là “
không thể y”. Đó là tiền đề thứ hai của
phép suy luận MT2. Lúc này, kết
đề sẽ là “không thể x”, tức là “không thể
không nghe lời ta”. Nói cách khác
hàm ư của câu đó là lời đe dọa: “phải nghe lời ta.”
Trong những bước trên,
việc xác định đúng
bản chất của cấu
trúc câu được nêu (bước 1) đặc biệt
quan trọng. Bước 2 là bước “trong thực tế không nên, không thể như vậy,
như vậy là sai” làm cầu
nối đi tới tiền
đề thứ hai của các phép suy luận MT. Để làm rơ điều này,
chúng ta xét thêm ví dụ (4):
(4) Mày mà thi trượt đại
học th́ đừng có trách.
Bước
1:
(4) Û (4b) Nếu mày thi trượt đại học
th́ mày đừng có trách.
Dễ
chấp nhận rằng, “mày đừng có trách” là một lời
đe dọa đại để
như ta sẽ thực hiện một điều z
không tốt đối với mày, làm mày khốn khổ,
đánh đ̣n chẳng hạn. Do vậy:
(4) Û
(4b) Û
Nếu mày thi trượt th́ ta sẽ đánh đ̣n.
Vậy câu đă cho có cấu
trúc “nếu x th́ y”, tức là: x ̃
y. Ở
đó :
x
=
mày thi trượt đại học; y = ta sẽ đánh đ̣n.
Bước
2:
Trong thực tế không ai muốn
bị khốn khổ, không ai
muốn bị đánh đ̣n. Tức là: “~ muốn y”.
Bước
3: Kết hợp những điều
có được từ bước 1 (x ̃
y) và bước 2 (~ muốn y ), ta được:
(x ̃ y) Ù
(~ muốn y)
Theo
luật MT1, sẽ suy ra “đừng x”, hay là “mày đừng thi trượt”.
C̣n
như ở bước 2, từ “không ai muốn bị
đánh đ̣n” dẫn tới quan niệm “không thể
để bị đánh đ̣n, tức là “~ thể
(để bị) y”. Lúc này, áp
dụng luật suy diễn MT2, chúng ta sẽ suy ra hàm ư “mày
phải không thi trượt
đại học”. Tức là “mày phải thi đậu
đại học.”
Với câu “(Bố tạm tin con.) Nếu
bố hỏi cô giáo mà không phải vậy th́ con
đừng có trách!” Nội dung
của vế thứ nhất “Nếu bố hỏi cô
giáo mà không phải vậy” được rút gọn
thành “Nếu không phải
vậy” đồng nghĩa với
“Nếu con nói dối”. Do vậy câu “Nếu bố
hỏi cô giáo mà không phải vậy th́ con đừng có
trách!” đồng nghĩa với “Nếu con nói dối
th́ đừng có trách!”.
Tới đây, dễ dàng suy ra hàm ư của câu trên là “con không
được nói dối”.
Theo cách làm trên, chúng ta dễ dàng suy ra hàm ư
của những câu nhân quả.
Câu
“Cứ thế này th́ có mà đi ăn mày.” (Đời thừa, NC) có hàm ư là một lời
vận động, tự nhắc nhủ không thể
như thế này măi được.
Hai
câu dưới đây có hàm ư là những lời khuyên. Câu “Nếu ḿnh là
cậu th́ ḿnh sẽ cưới cô ấy.” là lời khuyên
“cậu nên cưới cô ấy.”Câu “Nếu cậu không nói
th́ cô ấy sẽ hiểu lầm đấy.” cũng là
lời khuyên “cậu cần phải nói với cô ấy.”
Câu
“Nếu cô ta là người mẫu th́ mày thành hoa hậu
mất.” là một lời đánh giá có hàm ư cô ta không thể
là người mẫu được.
1.2.1.3c. Vài lưu ư
1) Quá
tŕnh tái hiện hợp lư một câu thành cấu trúc nhân quả
có tầm quan trọng đặc biệt. Có vậy mới có thể thực hiện
tốt các bước suy luận ra hàm ư. Ví dụ:
(5) Theo chị, em càng ghen vô lối
như thế th́ chồng càng
chán em. Mà càng chán em th́ nó càng có
lư do để đi với bồ.
Câu trên là hội của hai
câu nhân quả sau: “(Theo chị,) [Nếu] em càng ghen vô lối
như thế th́ chồng
càng chán em. [Và, nếu mà] [chồng em] càng chán em th́ nó càng có lư do để
đi với bồ.” Nói cách
khác, câu (5) chuyển thành chuỗi suy luận trên đây và nó
có cấu trúc (x ̃ y) & (y ̃
z).Đây là hai tiền đề của phép suy luận HS.
Theo đó, suy ra kết đề (x ̃ z), tức
là: “Nếu em càng ghen vô lối như thế th́ chồng em càng có lư do để đi với
bồ.” Đây cũng là một câu nhân quả.Trong thực
tế, không một phụ nữ b́nh thường nào muốn
chồng ḿnh có bồ. Theo 3 bước đă tŕnh bày và dùng
phép suy luận MT, dễ dàng suy ra hàm ư của (5) là “Em
đừng ghen vô lối như thế”.
(6) “Nếu cậu không mở
ngay cửa ra, chúng tôi trèo tường mà vào th́ xác cậu sẽ
nát như cám.” (HLNTC)
(6) Û (6b) “Nếu cậu không mở ngay
cửa ra, [th́] chúng tôi trèo tường mà vào. [Nếu] chúng tôi trèo tường vào
th́ xác cậu sẽ nát như cám.”
Đây cũng là chuỗi suy luận
gồm hai câu nhân quả (x ̃
y) &
(y ̃
z). Chúng là hai tiền đề của
phép suy luận HS. Theo đó,
suy ra kết đề (x ̃ z), tức
là: “Nếu cậu không mở ngay cửa ra th́ xác cậu sẽ
nát như cám.” Cũng dùng phép suy luận MT, suy ra ngay hàm ư của câu trên là “Cậu
(= quận Châu) phải mở
ngay cửa ra (để binh sĩ
vào).
2) Có những
khuôn ngôn ngữ tạo ra một loại hàm ư xác định.Từ
th́ có vai tṛ quan trọng
trong việc h́nh thành những lược đồ hàm ư.
(Xem thêm mục §4.)
Ví dụ: “Có A
không th́ bảo?” Đây là lời đe dọa với hàm
ư buộc người nghe “phải thực hiện A”.
3) Cấu trúc “phải A th́ mới B” chứa từ t́nh thái “phải”, suy ra đây cũng
là cấu trúc nhân quả và A
biểu hiện điều kiện cần. Loại câu
này luôn luôn có hàm ư “nếu không có A là không có B”. Ví dụ: Câu
“Phải biết chữ nôm th́ mới có thể làm
được công việc nghiên cứu các tác phẩm cổ
điển Việt Nam” có hàm ư “Nếu không biết chữ nôm th́ không thể
làm được công việc nghiên cứu các tác phẩm cổ
điển Việt Nam.”
4) Sơ đồ suy luận
MV là cơ sở lô gích chonhững lối nói lấy
điều kiện đủ làm điều kiện cần
để tạo hàm ư. Phương
pháp xác định hàm ư của những câu trên vẫn theo
3 bước đă nêu. Lưu ư rằng trong những trường
hợp này, ở bước 2 sẽ là trong thực tế sẽ không xảy ra x. Ví dụ: “Bao giờ hết cỏ,
nước Nam mới hết người đánh Tây”
(NĐC); “Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,/Sáo đẻ
dưới nước th́ ta lấy ḿnh.”
5) Một
khuôn ngôn ngữ về hàm ư của
câu nhân quả chứa yếu
tố phiếm định
(5A)
A
(mà) không x th́ c̣n ai x?
(5B) A (mà)
x th́ c̣n ai không x? (xem
§4.2.5.1.)
6) Trong phương pháp xác
định hàm ư trên đây, bước thứ hai có thể
được nêu rơ ngay trong ngữ cảnh của câu. Ví dụ:
(7) Lấy anh em biết
ăn ǵ ( Lộc sắn th́
chát, lộc si th́ già) (cd)
Bước 1:
Lấy anh em biết ăn ǵ Û Nếu em lấy anh th́ em biết
ăn ǵ?
Như vậy, câu (7) có cấu trúc
“nếu x th́ y”, tức là: x ̃ y. Ở đó x = em
lấy anh;
y
= em biết ăn ǵ?
Bước
2:
Chất vấn để bác bỏ, vậy y = “em biết ăn ǵ?” Û
em không biết ăn ǵ Û
em không có ǵ để ăn. Điều
này được giải thích ngay trong câu tiếp theo:
“Lộc sắn th́ chát, lộc si th́ già.” Lẽ
thường ai cũng phải ăn để sống, nên
em không thể không ăn = ~ có
thể y
Bước
3: Kết hợp những điều
có được từ bước 1 (x ̃
y) và bước 2 ( ~có thể y), ta được: (x ̃ y) Ù
( ~ có thể y)
Theo
luật suy diễn MT2, sẽ
suy ra không thểx , tức
là “em không thể lấy anh”.
Đó là hàm ư của câu trên.
7) Ngoài những
sơ đồ suy luận MT, MT1, MT2, MV, HS hàm ư c̣n có
thể được xác định theo sơ đồ suy luận MP,
ở đó tiền đề liên quan đến những lư lẽ đời thường khác.
Chẳng hạn, hàm ư về lời khuyên cũng
thường liên quan đến lư lẽ nên làm giống những người khác.Ví dụ:
“Rẻ th́ rẻ thật nhưng
giá là tôi th́ tôi chẳng mua đâu.” (MCX). Vế sau của câu này có cấu
trúc “x ̃ y”
(giá là tôi th́ tôi chẳng mua). Lời khuyên thường dựa trên lư lẽ “anh nên làm như tôi”.
Tức là: anh »
tôi = x. Theo
sơ đồ MP, suy ra hàm ư của câu trên là lời khuyên
anh cũng chẳng nên mua.
1.2.1.3d.
Từ th́ ở trong một
cấu trúc khác
Hiện tượng chập cấu trúc trong
chuỗi câu nhân quả
Trong [12] chúng
tôi đă nêu một hiện
tượng được gọi là “sự kỳ dị
lô gích” ở một số
câu có cấu trúc “nếu A th́ B”, như:
(8) Nếu anh khát
th́ trong tủ lạnh có nước mát đấy.
(9) Nếu anh thích
chơi bóng bàn th́ có vợt và bóng đấy.
Những câu trên đây không
phản ánh trực tiếp một quan hệ nhân quả. Thật
vậy, “khát” không phải là điều kiện đủ
của “trong tủ lạnh có nước mát”, “thích chơi
bóng bàn” không phải là điều kiện đủ của
“có vợt và bóng đấy”. Hơn nữa, nếu đó là
cấu trúc nhân quả th́ mệnh đề thuận “nếu A th́ B”
phải tương đương với mệnh
đề phản đảo “nếu không B th́ không A”. Nhưng
rơ ràng (8) không tương đương với “Nếu trong tủ lạnh không có nước
mát th́ anh không khát”. Và (9) cũng không tương
đương với “Nếu không có vợt
và bóng th́ anh không thích chơi
bóng bàn.”
Bản chất của hiện
tượng này là những câu (8) và (9) phản ánh hiện
tượng rút gọn phần
kết quả trong một chuỗi hai cấu trúc nhân quả,
ở đó phần kết quả trong câu thứ nhất lại
trùng với phần kết quả trong câu thứ hai khi những quan hệ nhân quả này
là hiển nhiên:
Nếu khát th́ uống nước
& Nếu trong tủ lạnh có nước th́ uống
nước (ấy) Û Nếu khát th́ trong tủ lạnh
có nước [đấy].
Hoàn toàn tương tự:
Nếu
anh thích chơi bóng bàn th́ anh có
thể chơi bóng bàn.V́ có vợt và bóng nên anh có thể chơi bóng bàn.Û (9)
Từth́trong
cấu trúc phức hợp mà vế đầu là một
dấu hiệu nghịch nhân quả dù,
dầu, dẫu, ngay cả…: “Dù
A th́ cũng/vẫn B”, “Ngay cả
A th́ cũng/vẫn B”… Những cấu trúc này luôn
luôn dựa trên lẽ thường “Nếu
A th́ không B”. Có thể coi những lẽ thường này
là hàm ư của loại câu trên. Ví dụ:
“Họ làm chúng tôi hiểu
rằng, ngay cả trên những
cánh đồng hoang liêu nhất th́
chúng tôi vẫn bị ràng buộc bằng hàng vạn luật
lệ. “ (CĐBT).Lẽ thường ở câu
trên: Trên những cánh đồng hoang liêu nhất th́ người ta không bị luật lệ nào ràng buộc.
“Tôi ngơ ngác không biết, nhưng dù cha có ở gần ngay đấy th́ chúng tôi cũng chẳng thể
cầu cứu” (CĐBT).Lẽ thường ở câu này: Nếu cha có ở ngay gần th́
chúng tôi có thể cầu cứu”.
1.2.1.3e. Hàm ư trong những câu ghép có từ
“th́”
Theo
phương pháp đă tŕnh bày ở mục trên, chúng ta
dễ dàng xác định được những hàm ư ngôn
ngữ - những hành vi ngôn ngữ gián tiếp (HVGT) - trong
những câu có cấu trúc “[Nếu]
A th́ B” dưới
đây. Khi dùng các qui tắc MT để suy ra hàm ư th́
hàm ư đó đều là sự phủ định
tiền đề A, khi
dùng các qui tắc MP, HS, MV để suy ra hàm
ư phủ định th́ hàm ư đó
đều là sự phủ định kết đề B.
Sự phủ định này được thể
hiện trực tiếp qua các từ không, chẳng, chả hoặc thể hiện
dưới dạng t́nh thái đừng,
chớ, không nên, không thể…Lúc đó, chỉ cần xác
định đúng tiền đề A hoặc kết đề B và
đem phủ định nó là chúng ta sẽ được
hàm ư gốc của câu.
Từ hàm ư gốc suy ra hàm ư
thích hợp trong ngữ
cảnh.
(10) [Lạy ông
bà,] chúng con có biết cái ví
tiền của ông mặt ngang mũi dọc thế nào th́
chúng con cứ chết một đời cha ba đời
con!(MCV).
Tiền
đề của câu này là “chúng
con có biết cái ví tiền của ông mặt ngang mũi
dọc thế nào”. Phủ định nó ta
được hàm ư gốc: “chúng
con không có biết cái ví tiền
của ông [mặt ngang
mũi dọc thế nào]”. Lấy ví tiền tất
biết ví tiền.Không biết ví tiền suy ra (hàm ư là) không lấy ví tiền.
(11) Họ mà bắt gặp
anh th́ sẽ giết anh. (Rômêô
& Giuliét).
Tiền
đề của câu trên là “Họ bắt gặp anh”. Lẽ
thường, không ai muốn bị giết. Suy ra hàm ư gốc là tiền đề bị
phủ định dưới dạng t́nh thái “Anh đừng để họ bắt
gặp”. Ngữ cảnh khiến câu có hàm ư là lời khuyên “Anh nên về đi”.
Một số hàm ư (HVGT) như:
HVGT
là lời thề, lời cam kết:
“Tôi mà lấy của
bà th́ tôi không phải là giống người.”; “Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt
đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm
có thế, con có dám nói gian th́ trời
chu đất diệt, bẩm quả đi ở tù
sướng quá.” (NC); “Tôi lấy
cái ví của anh th́ tôi phải tội lồi mắt ra.”
(NCH); “Anh mà yêu ai khác ngoài em th́ anh không c̣n là thằng đàn
ông.”
HVGT
là lời khuyên:
“Nếu Bệ hạ muốn
hàng xin hăy chém đầu thần đi đă.”; “Nếu ngài
không ra tranh cử th́ c̣n ai nữa?”(GT); “Làm thế th́ bôi gio
trát trấu vào mặt tao à?”; “Nếu con c̣n nghĩ tới mẹ
th́ hăy bỏ ư định ấy đi.”
HVGT
là lời cấm đoán, đe dọa:
“Con mà lấy nó
th́ đừng bao giờ về
nhà này nữa.”; “Mày mà không nộp đủ tiền cho tao
th́ vợ con mày không yên thân đâu.”; “Ai nuôi cộng sản
th́ coi đó!” [ngữ cảnh cho biết: đó = một người bị bắn chết]
(RXN); “Tao mà chết th́ có thằng sạt nghiệp mà c̣n
rũ tù.” (NC); “Mày mà không nôn ra
hết số tiền đó th́ đừng có trách ông nặng
tay.” ; “Mày mà nói ra th́ tao giết.”; “Tôi chết th́ cũng có
năm ba mạng đi theo.” (HLNTC)
HVGT
là lời nhận định, đánh giá:
“Cô ấy mà thương anh th́ trời
sa xuống đất.”; “Trời sập th́ tôi mới lấy
anh.”; “Cao đẳng ǵ mà quê thế?”
(NCH); “Nó mà không đa nghi th́ đến Tào Tháo cũng là kẻ
thật thà.”; “Cái Hiên mà hát th́ người ta tưởng tao
đang bóp cổ nó.”; “Ai cũng im th́ xă hội loạn mất”
(MVK); “Tôi mà xấu th́ cũng chẳng ai đẹp
được.” (SĐ); “Nếu
vợ chồng nó hạnh phúc
th́ tuần trước nó đă không phải đến nhà
ḿnh ở tạm.”; “Hàng tôi mà bán đắt th́ c̣n hàng nào bán rẻ?”; “Không phải con làm vỡ
th́ nó tự vỡ à?”; “Tao th́ tao không ngờ cho con vú em
đâu. Nếu nó có tính tắt
mắt th́ tao mất nhiều
lần rồi.” (MCV)
HVGT là lời khẳng định:
“Nhà cháu mà không đến th́
đến nhà ai!” (Lời Bác Hồ,
TT, Xuân Mậu Tư, t.3) “Nhưng nếu không phải là hoa
bưởi, th́ c̣n thứ hoa nào mà đến lá cũng
thơm?” (PTTN); “Không phải nó th́ là ai?”; “Cái cách viết lách
như thế, cái cách dựng truyện như thế, không
phải là phát động quần chúng nông dân chống quan
Tây, chống vua ta th́ c̣n là cái ǵ nữa.” (NT); “Nhưng chẳng tin vào bùa th́ c̣n
biết làm ǵ nữa” (CĐBT)
HVGT
là lời cảnh báo:
“Làm vậy [th́]
anh sẽ bị ngồi tù 10 năm đấy.” ; “Anh làm thế
máy hỏng th́ bỏ mẹ!”
HVGT
là lời đề nghị, yêu cầu:
“Nếu cậu
không giúp ḿnh chuyện này th́ đừng coi ḿnh là bạn nữa.”;
“Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi th́
người ta đá bóng cho chó xem à?” (NCH);
“Nếu mày bán mảnh đất hương hỏa của
ḍng tộc th́ cầm dao đâm chết tao đi đă.”
HVGT là lời từ chối:
[Bà lăo thỉnh cầu,
thỉnh thoảng xin được lên thăm cháu. Bà Phó Thụ
đáp:] “Bà muốn chơi với nó th́ đem ngay nó về
nhà, t́m cơm cho nó ăn, bà cháu chơi với nhau vài ba tháng
cho thật chán đi, rồi hăy bảo nó lên.” (NC)
1.2.1.3g. Câu ghép vắng từ th́
Cấu trúc đảo trật tự. “Nếu A th́ B” tương đương
với “B nếu A”
“Chất lượng
sẽ không đảm bảo nếu
đại học tư được mở một cách
tùy tiện”; “Điều ǵ sẽ xảy ra nếu anh ta trở
thành giám đốc tổng công ty này?”
Những cấu trúc
đảo trật tự vắng từ th́ vẫn có thể h́nh thành hàm ư. Phương pháp
xác định hàm ư này vẫn được thực
hiện theo 3 bước đă nêu. Ví dụ:
“(Giáo dục, kể cả giáo dục đại học là
một trong những công cụ đảm bảo cho sự
b́nh đẳng và sự công bằng cho mọi công dân trong
một xă hội, […]) Ai bảo đảm được quyền đó cho
họ nếu không phải là nhà nước?” (SGTT, 21.01.08)
Bước 1: Câu
trên đây tương đương với “Nếu không
phải là nhà nước th́ ai
bảo đảm được
quyền đó cho họ ?” nên nó có cấu trúc “x ̃ y”, với x = không phải là nhà nước ; y = ai bảo đảm được
quyền đó cho họ?
Bước 2: “ai
bảo đảm được quyền đó cho họ?”
là câu chất vấn nên tạo ra hàm ư bác bỏ: Không ai bảo đảm
được quyền đó cho họ. Tức là có ~y.
Bước 3: Kết
hợp kết quả của hai bước trên, ta
được hai tiền đề của phép suy luận
MT: (x ̃ y) Ù (~ y).
Vậy
suy ra: ~x, tức là“phải
là nhà nước (bảo đảm quyền lợi đó
cho họ)”
Quán ngữ
Th́
ra báo hiệu một sự phát hiện
trong nhận thức (do từ ra
có nét nghĩa “bộc lộ”, x. §4.5.3.4. chương
4) “Th́
ra đến lúc cùng, lăo
cũng có thể làm liều như ai hết.” (NC); “Phải
đến khi truyện Lăo Hạc
khép lại, ta mới thấy ớn lạnh: th́ ra toàn bộ câu chuyện là
một cuộc chuẩn bị để chết của một
con người!” (Chu Văn Sơn)
Một
trường hợp đặc biệt: có thể vắng
cả hai liên từ trong cấu
trúc nhân quả. Lúc đó, chúng trở thành quán ngữ.
Ví dụ: “Biết
chết liền”; “Hiểu chết liền”, “Nói chết liền”…Có
những người tưởng rằng đây là những
tiếng lóng. Thực ra những
cách nói này được hiểu như là những lời thề mà dạng đầy
đủ của chúng là “Nếu
biết th́ chết liền”;
“Nếu hiểu th́ chết liền”, “Nếu nói th́ chết liền”… Vẫn theo phương pháp 3
bước đă tŕnh bày, chúng ta suy ra ngay được
hàm ư của những quán ngữ trên: Không thể biết
được ; Không thể hiểu được ; Không
thể nói được. (Xem Phụ
lục)
1.2.2. Từ “th́” để liên kết hai
lượt lời
1.2.2.1. Cấu trúc “nếu A th́ B”
xuất hiện ở lượt lời thứ hai
trong cặp thoại
Lượt lời thứ nhất làm thành
ngữ cảnh cho lượt lời thứ hai.Theo
phương pháp đă tŕnh bày, chúng ta dễ dàng xác
định được hàm ư của lượt lời
thứ hai thích hợp với ngữ cảnh. Ví dụ:
(1) - Con phải đến ṭa
soạn. Bố mẹ cho phép chứ ạ?
-
Không cho th́ con ở nhà chắc?”
(PVTV, tập 10) (hàm ư: cho phép
miễn cưỡng)
(2) - Con gái ông hiệu trưởng thế nào?
- Nếu cậu nh́n thấy
nó chắc cậu chạy mất
dép thôi (hàm ư: con gái ông hiệu trưởng rất xấu)
(3) [Anh& em gái] – Tháng này
anh mua cho em bộ trang điểm nhé?
- Em có trang điểm vào
th́ cũng đến thế mà thôi!” (hàm ư: Em xấu & từ
chối mua)
(4) - Yêu vợ có phải là
làm hết việc nhà cho vợ không?
-
Nếu muốn làm hư vợ
th́ hăy làm hết việc nhà. (hàm ư: không nên làm hết việc
nhà cho vợ)
(5) -
Chỗ này đỗ xe được không?
- Muốn nộp tiền phạt
th́ đỗ ở đấy. (hàm ư: chỗ này không đỗ
xe được)
(6) -Chị ấy có chồng
chưa?
- Bảo chưa th́ cũng
là chưa mà bảo có th́ cũng là có.” (hàm ư: Chấp nhận
lửng lơ, nước đôi:có chồng mà cũng
như không)
(7) - Sao dạo này Thắng
buồn thế nhỉ?
-Nó không bị bồ đá th́
đâu có như thế. (hàm ư: nó bị bồ đá)
1.2.2.2. Những hàm ư ngữ dụng
Có
hàng loạt cách thể hiện hàm ư qua những câu biểu
hiện quan hệ nhân quả.Chúng liên quan tới “x ̃ y”.Nếu chỉ ra lư lẽ
đó một cách thuyết phục th́ chúng ta chứng minh
được HVGT đó. Trong một cặp thoại,
từ lượt lời thứ nhất người nói
lượt lời thứ hai đưa ra phát ngôn
kiểu “nếu A th́ B” để tạo ra hàm ư h́nh thành
những HVGT như chấp
nhận, bác bỏ, từ chối, thanh minh, giải thích,
đồng t́nh, chê bai, nói
lửng lơ…
Một
số ví dụ:
1.2.2.2a. Hành vi bác
bỏ.
(8)
Đường này đi Hải Pḥng phải không?
(8b) Ông muốn sang Trung Quốc th́
đi đường này.
Bước
1:
(8b) Û Nếu ông muốn sang Trung
Quốc th́ ông đi đường này.
Câu
trả lời có cấu trúc x ̃
y, ở đó x = ông muốn sang
Trung Quốc,
y
= ông đi đường này.
Bước
2:
Người hỏi muốn đi Hải Pḥng Û Người hỏi không
muốn sang Trung Quốc Û
“~ x”
Bước
3:
Kết hợp những điều ta được từ
bước 1 (x ̃ y) và bước
2 ( ~
x),
ta được: (x ̃ y) Ù
(~ x)
Theo luật suy luận MV, suy ra hàm ư
gốc “không (nên) y”, tức
là “Ông không (nên) đi đường này”. Suy ra “Đường này không đi
Hải Pḥng”
(9) : - Em ơi! Đây có phải là
ch́a khóa tủ không?
- Có thế mà anh cũng quên.
Muốn mở cửa nhà bếp th́ lấy ch́a ấy.”
Hoàn toàn
tương tự, câu trả lời có hàm ư: Đây không phải là ch́a khóa tủ.
(10) A: Giám đốc không
đồng ư đâu.
B: Nếu giám đốc không đồng ư th́
c̣n bảo ḿnh nộp lư
lịch làm ǵ?
Bước
1:
“c̣n bảo ḿnh nộp lư
lịch làm ǵ?” là một câu chất vấn. Nó tạo ra hàm
ư bác bỏ. Do vậy, (10B) Û
“Nếu giám đốc không
đồng ư th́ giám đốc không bảo ḿnh nộp lư lịch”. Câu này có
cấu trúc x ̃ y, ở đó x = giám đốc
không đồng ư,
y = Giám đốc
không bảo ḿnh nộp lư lịch.
Bước
2: Trong
thực tế, giám đốc đă bảo ḿnh nộp
lư lịch. (Điều này là TGĐ của câu chất
vấn “c̣n bảo ḿnh nộp
lư lịch làm ǵ”). Vậy ta có
“~y” .
Bước
3:
Kết hợp những điều có được từ
bước 1 (x ̃ y) và bước 2
(~y),
ta được: (x ̃ y) Ù
( ~ y)
Vậy
theo suy luận MT sẽ suy ra ~x.
Tức là lời đáp của B có hàm ư và là một HVGT bác
bỏ lời của A: “giám đốc đă đồng
ư”.
Câu
trả lời của B đă theo phương thức
chất vấn kết luận để bác bỏ tiền
đề của một quan hệ kéo theo. Xem
§1.2.chương 1.
Cấu
trúc chất vấn theo sơ
đồ “Không/Chẳng x th́là ǵ
kia?” luôn luôn có hàm ư là sự khẳng
địnhx.
1.2.2.2b. Hành vi bác bỏ để khẳng
định
(11) A1: Nhà cậu bề thế
quá nhỉ.
B: Dào ôi, cậu cứ
đùa, chỉ là cái lều che mưa che nắng thôi.
A2: Ôi, nếu
đây là cái lều th́ như thế nào mới gọi là biệt
thự kia chứ?
Những ví dụ tương
tự: “Chẳng nó th́ ai mượn
cái ấy?” (hàm ư: chính nó mượn); “Không mày th́ c̣n ai vào đấy.” (hàm ư:
chính là mày); “Không tốt sao lại là đảng viên?” (VN,
703) (hàm ư: đảng viên th́ tốt)
1.2.2.2c. Hành vigiải
thích.
(12a) Sao con lại đánh em?
(12b)
Nếu nó ngoan th́ con đâu có đánh.” (x̃ y; x = nó ngoan; y = không đánh)
Con đă đánh
(= ~y). Theo luật suy luận MT, suy ra ~x, tức là “Nó không
ngoan”.
(13a) Sao anh lại ra nông nỗi này?
(13b) Nếu không có cái thằng
chết tiệt ấy th́ tôi đâu có thế này”. (hàm ư: Cái
thằng chết tiệt ấy làm tôi ra nông nỗi này.)
1.2.2.2d. Hành vi khuyên
A : Thôi,
đừng vào nữa.
Trước lời đề nghị này,
có hai cách trả lời đều động chạm
đến ḷng tự trọng (thể diện) của A và
cùng tạo ra một hàm ư, một hành vi ngôn ngữ gián
tiếp, là lời khuyên “nên vào”:
(14)a.
B1: Nếu cậu không dám vào
th́ quay về đi.
( x̃ y; x = không dám vào, y = quay
về)
(14)b. B2: Nếu cậu không vào
th́ quay về giặt váy cho vợ đi.
( x̃ y; x = không vào, y = quay về
giặt váy cho vợ = “không vào”)
Ở
B1, từ “dám” làm
người nghe hiểu rằng, người b́nh
thường biết tự trọng, có dũng khí th́ “dám
vào” ( = ~x). Nếu người nghe cũng có dũng khí,
cũng sẽ ~ x. Mà x ̃y . Vậy theo luật suy
luận MV, sẽ suy ra hàm ư “nên ~y”, tức là “không nên quay
về”.
Ở B2, người đáp lời lại
dùng luật suy luận MT
để tạo hành vi ngôn ngữ gián tiếp. “Về nhà giặt váy cho vợ” (=
y) là lối nói, theo tập
tục xă hội thời trước, phản ánh một điều mà đấng
mày râu không thể chấp nhận được.
Người nghe sẽ “không quay về giặt váy cho
vợ” (= ~y). Do vậy, theo
luật suy luận MT sẽ suy ra hàm ư: ~x, tức là “nên vào”.
(15)
Nếu là con th́ con sẽ không gửi tiền vào ngân
hàng.
Cơ
sở của lời khuyên này
dựa trên lư lẽ về cá
nhân: Nếu tôi làm như vậy th́ người
đối thoại cũng nên
làm như vậy. Tức là: G(x) ̃
G(y), mà G(x). Vậy theo luật
suy luận MP, suy ra hàm ư G(y): Bố/Mẹ không nên gửi
tiền vào ngân hàng.
Có
những hàm ư liên quan tới phép tuyển. Nhưng thực
chất đó chỉ là những hàm ư do phép kéo theo gây ra. V́
công thức (x ̃
y) = ((~x) Ú y) cho phép ta
chuyển một phán đoán tuyển thành một phán
đoán kéo theo và ngược lại.
1.2.2.2e. Hành vitừ chối
(16) [A: Chị làm văn
thư cho thủ trưởng nhé?]/ B: Tính tôi hay nghịch lắm,
nhận làm công tác phục vụ thủ trưởng sợ
không chu đáo.” (Mùa hạ cháy,
TNCL, 2006)
Xuất
phát từ lư lẽ ngầm ẩn “Nếu ai phục vụ
cho thủ trưởng th́ người đó phải chu
đáo”, (z ̃ y), hay là
“Ai không chu đáo th́ không thể phục vụ cho
thủ trưởng” (~y ̃
~z) Lại có lư lẽ ngầm
ẩn khác: “Người hay
nghịch th́ làm việc không chu đáo”, “x ̃
~y”. Qua phép suy luận HS, suy ra (x ̃ ~z). Tức là “Tôi hay nghịch
nên không làm văn thư cho thủ
trưởng được.”
Suy ra hàm ư của (16) là một lời từ chối:
“Tôi không nhận làm
văn thư cho thủ trưởng.”
1.2.2.2g. Hành vi đánh
giá
(17) [– Cho xem kim đă – Bulika rền
rĩ./- Đây, xem đi! / -Ối bà con ơi! – Bulika tru tréo
lên –] Nếu đây là kim th́ như thế nào mới gọi
được là đùi kia chứ!” (QLCMĐ, 131)
Lư
lẽ: x ̃ y, nếu là
dụng cụ, kim tiêm chẳng hạn, th́ phải phù
hợp với con người. Câu chất vấn “Như
thế nào mới gọi được là đùi kia
chứ!” gây ra hàm ư không có cái đùi nào được
gọi là đùi (b́nh thường); tức là (~y). Theo luật MT suy ra hàm ư
gốc: đây không phải là cái kim (b́nh thường). Khi
tiêm chích, người ta sợ cái kim to. Do vậy h́nh thành
hàm ư ngữ cảnh: cái kim này không b́nh thường mà to quá.
1.2.2.2h. Lưu ư: Cũng có
trường hợp lượt lời thứ nhất là một
câu biểu hiện quan hệ nhân quả. Lượt lời
thứ hai là một câu có liên hệ trực tiếp tới
lượt lời thứ nhất và tạo ra hàm ư. Kiểu
hàm ư này vẫn liên quan đến kiểu câu nhân quả chứa
từ th́. Ví dụ:
(18) [- Em không tin chồng em
có bồ. Họa có đứa
điên th́ nó mới theo không
anh ta.] / -Vậy à? Thế mà bây giờ có đứa đang điên đấy.
“Họa” là một từ báo hiệu rằng cái
điều được nói
đến rất khó xảy ra, gần như là một giả
định phi thực. Do vậy, cấu trúc “họa
x th́ mới y” cũng vẫn thể hiện
quan hệ nhân quả “x ̃ y”
dù hiếm khi xảy ra. Lượt
lời thứ hai là một khẳng định cái điều
rất khó xảy ra này lại đă đang xảy ra; tức
là đă x. Như vậy,
theo luật MP, ta suy ra hàm ư gốc
là y: đúng là có người đang
theo không anh ta. Vậy hàm ư của câu là sự khẳng định:
đúng là chồng em đang có bồ.
1.2.2.3. Hành vi ngôn ngữ chứa từ “th́”
1.2.2.3a. Th́ đứng đầu
lượt lời thứ hai và thể hiện những
hành vi ngôn ngữ. Ví dụ:
“Th́ A
đă!”: Hành vi đề nghị thực hiện A trước khi bàn tới
những việc khác.
(19) Mẹ ơi, con thích
ăn kem cơ”/ “Th́ con
ăn hết bát cơm này đă.
(20)
[- Bố ơi, ra đây con nhờ một tí./ - Có chuyện
ǵ vậy?]/ - Th́ bố
cứ ra đây đă. (Phim Hương đất,
tập 17)
(21) Th́u hẵng cứ vào nhà đă nào. Th́ u hẵng vào ngồi lên giường, lên ghế chĩnh chện cái đă nào. (Vợ nhặt, KL)
(22) Sao, ta lại
phải nghỉ ở đây thật ư?/Th́ cứ xuống xe đi đă. (TNCL, 2000)
(23) Mày là
đồ sứt môi./Th́
đă sao? [Môi tôi sứt nhưng ḷng dạ tôi nguyên lành, không
vá víu như bố con anh](phimMa
làng, VTV3): Hành vi chất vấn để bác bỏ.
(24) – Anh giải thích đi, tại
sao anh lại đi cùng cô ta?/ - Th́
anh đă nói rồi, chỉ là về cùng đường
thôi! / -Anh có thể đi đường khác cơ mà!/ - Em đă nói thế
th́ anh c̣n biết nói ǵ nữa! : Hành vi giải thích.
(25)
Sao thủ trưởng không tŕnh bày với sếp là
thằng Đường nó đă xin nghỉ phép sáng nay
để đưa vợ đi đẻ? Rơ khổ cho
nó./ Dĩnh: Th́ ổng có cho
tao kịp nói thêm câu nào đâu. (TTTN):
Hành vi giải thích.
(26) “Th́ liều vậy!”: Hành vi khẳng
định
1.2.2.3b. Những
quán ngữ:Hành vi ngôn ngữ
chứa từ “th́”
Trong giao tiếp, có những lời
đối đáp thực hiện một HVNN nào đấy
và trở thành những khuôn ngôn ngữ xác định, cho
phép tỉnh lược tới mức tối đa các
thực từ. Lâu dần những khuôn này trở thành
những quán ngữ, dù nó
không chứa những nội dung cụ thể, dù không
đặt trong một ngữ
cảnh cụ thể th́
người nghe vẫn nhận ra đó là HVNN ǵ. Quán
ngữ là những trường hợp cụ thể
của cấu trúc trừu tượng và lược
đồ nghĩa là những HVNN. (xem §4.3. )
HVNN trong lượt lời thứ
nhất dẫn đến HVNN
trong lượt lời thứ hai. Do vậy, quan hệ
giữa hai lượt lời là quan hệ nhân quả.
Nếu
lượt lời thứ nhất là HVNN A th́
người đáp, trong lượt lời của
ḿnh lặp lại A rồi đưa ra HVNN của ḿnh. Khuôn mẫu tổng
quát của cặp thoại sẽ là:
“- A [/ A’]
- Nếu A[/ A’] th́ B”; Ở
đây A’ là hệ quả
của A
Trong thực tế, tuỳ thuộc
kiểu hành vi A và hệ quả A’ của nó người
đáp đă rút gọn từ “nếu”
và những từ có nội
dung cụ thể khác. Trong [21:193-199],
chúng tôi đă chỉ ra một số quán ngữ chứa
đựng những HVNN cụ thể.
(27)
A
th́ cũng x
Câu
này có TGĐ “Trước đó có một phát ngôn đề
cập tới A với hàm ư nếu A (hoặc hệ
quả A’ của nó) sẽ ảnh hưởng, trở
ngại tới xảy ra x,
nghĩa là nếu A th́ không x”. Như vậy, “A th́ cũng x” là một hành vi bác
bỏ, không chấp nhận ảnh hưởng hoặc vai
tṛ của A (hoặc hệ
quả suy ra từ A) tới sự việc x sẽ xảy ra.
Ví dụ:
“Chán th́ cũng phải
ăn hết”. Câu này có TGĐ “Trước đó có một
phát ngôn đề cập tới do chán nên không ăn hết
được nữa”. Người nói không chấp nhận
điều này, nên đă nói một câu có hàm ư ép ăn hết.
“Hiểu ra th́ cũng muộn rồi”.Câu
này có TGĐ “Trước đó có một phát ngôn đề
cập tới nếu hiểu
biết th́ có thể thực hiện một
điều ǵ đó”. Người nói không chấp nhận
điều này, nên đă nói một câu có hàm ư dẫu
hiểu nhưng đă trễ,
không c̣n cơ hội thực hiện công việc
nữa.
“Vẫy
đuôi th́ cũng chết.” (NC, Lăo
Hạc) Con Vàng mừng rỡ, nhưng lăo Hạc đă
có chủ định nên không thể thương
được: Vẫy đuôi th́ cũng chết.
(28)
Không
A th́ cũng B
Đây là hành vikhẳng định một đối tượng
có thuộc tính ở mức độ A hoặc B thấp
hơn một chút. [§2.3.3.] Ví dụ: Mùa này, không băo th́
cũng lụt. Xem (§4.2.2.3.)
Cũng ở [21:150 -153], chúng tôi đă nhận
xét rằng, câu hỏi “Không A
th́ B à?” là một câu mơ hồ.
Có những ngữ cảnh khiến câu này là câu hỏi thực
sự, có ngữ cảnh khiến nó là câu bác bỏ B.
(29) A th́ có!
TGĐ:
Trước đó có một phát ngôn khẳng định B,
một điều trái ngược với A.
Đây là hành vi bác bỏ
B trong TGĐ. (xem thêm §1.3. chương 2)
Ví dụ 1: - Tớ rất sợ ma.
- Ma
sợ cậu th́ có. (Suy ra hàm
ư: Cậu không hề sợ ma.)
Ví dụ 2. (Anh ngốc đếm ḅ, TCDGVN)
Anh
chồng (ngốc): - Thiếu mất một con
rồi!
Vợ
(cười) : - (Thôi, xuống đi,) Thừa một con th́ có.
(30) (C̣n) y th́ không (à?/chắc?)
TGĐ:
Có một phát ngôn đă khẳng định một
thuộc tính nào đó của đối tượng x
Đây
là lời đối đáp thể hiện hành vi chấp nhận nhưng
tạo hàm ư làm cân bằng giữa
đối tượng x
và đối tượng y.
Ví
dụ: y nhận
định: Nó A lắm!; x đáp: C̣n y th́ không!
(31) C̣n y th́ b, ở đây b là một thuộc tính
ngữ nghĩa dương [+] nào đó
Đây
là hành vi nói đay! Một t́nh huống dùng của câu
này: Trước đó có phát
ngôn “x th́ a”, ở đó a
là một từ có thuộc tính ngữ nghĩa âm [ – ].
Người nói cho rằng như vậy là không biết
điều, không thích đáng v́ y
cũng có thuộc tính a, bèn
dùng lối nói ngược “C̣n
y th́ b” để đay
lại: ḿnh cũng vậy lại đi chê người
khác.
Ví dụ: (a) Bà kia xấu quá!/ Vâng, c̣n các bà th́
đẹp.
(b)
Chuột chù chê khỉ rằng hôi/ Khỉ mới trả
lời cả họ mày thơm.
(c) Tiền đến tay
rồi c̣n để nó cướp mất, sao mày kém
thế?/ Tôi kém, vâng, chị th́ giỏi.
(32) x th́ a (thôi)
Đây là hành vi nói
dỗi.Từ “thôi” mang
định hướng nghĩa ÍT [§1.2. chương 2], nó
đồng hướng nghĩa với từ a đi kèm, một từ mang
thuộc tính âm trong quan hệ đối lập với
một từ nào đó có thuộc tính dương. Ví
dụ:
(a)
[Cô Hoa khéo tay lại nấu ăn ngon quá] / Vâng, c̣n em
th́ vụng thôi.
(b)
[Chồng: Thằng X may thế, vớ được cô vợ
vừa đảm lại vừa xinh.]/Vợ: Vâng, tôi biết,
th́ chỉ có mẹ sề nhà ông là vừa đoảng lại
vừa xấu thôi.
(c) Mẹ: - Con nh́n bạn
Thanh ấy, hôm nào cũng học tới 12 giờ khuya.
Con:
- Vâng, con th́ lúc nào cũng lười thôi, bằng bạn
Thanh sao được.
Mẹ:
- Sao con lại tiêu cực thế? Bạn tốt th́ phải
học chứ.
Con: - Con th́ lúc nào chả tiêu cực, hả
mẹ!
(33)A
(x) th́ A, ở đó x là một từ phiếm định sao,mấy, ǵ, đâu, nào …
Đây là hành vichấp nhận A ở mức cao
hơn, một hành vi bất chấp A.
Ví dụ: Già mấy th́ già, thế mà cũng có
người yêu say đắm đấy. (NK)/ Ra sao th́ ra – tôi sẽ đi! /
Cậu muốn hiểu thế nào th́ hiểu. / Trời mưa th́ mặc trời mưa, Tôi nay đi bừa
đă có áo tơi (cd).
Trước lời đề
nghị thực hiện một điều A, trước
thông báo “Sẽ A đấy” hoặc
trước cảnh báo “Thế/Nhỡ) A th́ sao?”, ở
đó A là một trở ngại
lớn, một hiểm hoạ, người nghe có thể
nói:
(33a) A th́ A, (nhưng/mà)…
TGĐ: Có một người đă nhắc tới
A như là một lời đề nghị, yêu cầu thực
hiện A hoặc cảnh báo về một khả năng xảy
ra A không mấy thuận lợi,
thậm chí là một hiểm họa.
Lược
đồ nghĩa: Người nghe miễn cưỡng chấp nhận thực hiện
A hoặc khả năng A.Đây là HV chấp
nhận [§2.2.3. chương 1]
Chính v́ miễn
cưỡng chấp nhận mà cấu trúc này thường
được nối tiếp bởi “nhưng”, “mà” biểu hiện quan hệ nghịch
nhân quả, mở đầu cho cụm từ mang nghĩa
trái ngược với A hoặc
hệ quả rút ra từ A. Nếu A là tích cực
th́ phần sau sẽ mang ư tiêu cực. Trường hợp
trái lại, A sẽ mang ư tích cực.“A th́ A, nhưng/mà…” Ví dụ:
“Việc ấy, nói th́ nói, nhưng không
nên làm.”; “Rằng hay th́
thật là hay. [Nhưng] Nghe ra ngậm đắng nuốt
cay thế nào.” (Truyện
Kiều); Rẻ th́ có rẻ, nhưng
hàng không được tốt./“Bạn
th́ bạn, (nhưng) nó cũng lừa.”; “Giầu th́
giầu, mà vẫn không có
hạnh phúc.”; “[Giấy này mỏng tệ.] - Mỏng th́
mỏng, (nhưng) không hề ǵ.” / Cửa hàng
này có lớn hơn cửa hàng kia không? - Lớn hơn th́
(có) lớn hơn nhưng không
đẹp hơn được./ [-Chúng ta phải đi
ngay mới kịp.] – Đi th́ đi, nhưng anh vẫn chờ cho một chút./ Ǵ th́ ǵ,
tao cứ đi!/ Vào th́ vào, cần quái ǵ (CP)
(33b) Th́ đă sao?/Th́ có ǵ đâu?»Nếu A [/Nếu vậy] th́
đă sao [/có ǵ đâu]?
Lược
đồ nghĩa: xem
§4.4.2.5.
(34)
A th́ phải
Đây
là hành viđoán định. So
sánh:
(a) Anh ấy
ngạc nhiên, cũng
phải.
(b) Anh ấy
ngạc nhiên th́ phải.
Câu
(a) thể hiện một nhận xét. Câu (b) là một
sự đoán định, ở đây th́
phải thể hiện hành vi đoán địnhmột
nội dung được nêu trước đó.
(35)
Th́ B vậy
Đây
là hành viđề nghị một
mức B thấp hơn so với mức nào đó
đưa ra trước đó. Nó
là cấu trúc rút gọn của “[Nếu] Không A th́ B vậy”
(35b) Th́
vậy đi (Từ
vậy thay thế một
nhận định P trước đó)
Lược đồ nghĩa:Hành
vi miễn cưỡng chấp
nhận một nhận định trước đó
- Th́ vào
chơi nói chuyện vậy. (NCH)
- [Em chỉ huy được chứ?]/ Ừth́
em vậy.
- Th́
mợ đi một ḿnh vậy. (NH)
- Th́ [cứ cho là như ] vậy
đi. (Con voi, 175)
Ở ví dụ cuối nếu
thiếu “đi”, nghĩa của câu sẽ khác hẳn.
(36)Th́
đây B
TGĐ:Có một phát ngôn A tỏ ư hoài nghi, băn khoăn về một điều
ǵ đó.
Lược
đồ nghĩa (x.§4): Đây
là HV giải thích, chứng minh theo
chứng cứ B.
Người
đáp dùng khuôn “Th́ đây B” để giải đáp cho
những nghi ngờ, thắc
mắc băn khoăn c̣n tồn tại hoặc có thể
có từ câu A. Đây là cách đưa ra yếu tố B ngay
tại nơi nói để người nghe nh́n, để
kiểm tra làm bằng cứ.
Từ đó giải đáp được những băn
khoăn, thắc mắc hoặc yêu cầu của
người đối thoại.
(a) “Th́ đây, các ngài hăy cứ nh́n
vào ông huyện Hinh, hẳn các ngài phải chịu ngay
rằng tôi không nói đùa.” (NCH)
(b) “Th́
đây, anh cứ đọc bài này là rơ. Đúng là “cháy nhà mới ra mặt
chuột.”
(c) [ – Đồng chí cho
rằng không thể giải mă được những tín
hiệu vô tuyến này, nếu …] /Th́ đồng chí
cứ thử xem đây! (TASS được quyền tuyên
bố , t.24)
(d)
[Bố hỏi: Vô-va sao buồn thế? Vô-va: Con bị
điểm 0 toán./ Sao lại bị 0? - Cô hỏi con 2
cộng 2 là mấy, con trả lời là 4./ Thế th́
đúng rồi c̣n ǵ nữa? Cô giáo lại hỏi 2 nhân 2 là
mấy/ Thế th́ khác ǵ?]Th́
đấy, con cũng trả lời như thế.
1.2.3. Từth́ và thao tác phân cắt tập hợp
1.2.3.1. Khái quát
Có
một tập hợp A, tập hợp này có thể
được chia thành nhiều tập hợp con bộ
phận khác nhau: A1, A2 , A3, …Ta nói
tập hợp A được phân cắt thành những
tập hợp con A1, A2 , A3,
…với những thuộc tính x, y, z,… khác nhau.
Và
tập hợp A này chứa những phần tử a1, a2, a3 …
với những thuộc tính x, y, z,… khác nhau. Hăy coi mỗi
phần tử này là một tập
hợp một phần tử, thế th́ các phần
tử này cũng tạo ra
một phân cắt của tập hợp A đă cho.
Đề cập tới những
tập hợp con bộ phận với những thuộc
tính khác nhau này, chúng ta dùng từ th́
để miêu tả
liệt kê theo cấu trúc: “A1 th́ x, A2 th́ y, A3 th́ z…”. Cấu trúc này phản ánh
một thao tác tư duy khi dùng từ th́ để phân cắt
tập hợp A thành những tập hợp con bộ phận.
Khi nói “Ai
th́ x”, chúng ta chỉ
đề cập tới một tập hợp Aicó thuộc tính xnào
đó. Và trong câu này đă tiền giả định
rằng tồn tại
những tập hợp con khác cùng với Ai tạo thành một
phân cắt của một tập hợp A mà người nói nhận biết
được. Với quan niệm
trên chúng ta giải thích được nhiều
hiện tượng tiếng Việt liên quan đến
từ th́.
1.2.3.2. Phân cắt tập hợp là
một thao tác mà mỗi người nói thường xuyên
thực hiện hàng ngày.
Trước hết, đó là
những lưỡng phân giữa
sống và chết (“Sống
th́ khó chứ chết sao mà (= th́) dễ.” (CĐBT)), giữa cần và không cần (“Cha thờ
ơ, lạt lẽo, chuyện ǵ cần nói th́ nói vài câu nhát gừng”(CĐBT)), giữa việc ḿnh và việc người (Việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng), giữa
bỏ và giữ (Bỏ th́ thương, vương th́ tội),
giữa biết và không biết (Biết th́ thưa thốt,
không biết th́ dựa cột mà nghe), giữa nội dung và
h́nh thức, giữa vỏ và ruột (Thân em như củ ấu
gai/ Ruột trong th́ trắng, vỏ ngoài th́ đen), giữa
tay và miệng (Tay th́ lần hạt, miệng th́ tụng
kinh (Quan Âm Thị Kính)), giữa
vui và buồn, thành công và thất bại (Khi vui th́ vỗ tay vào, Đến khi hoạn nạn th́ nào
thấy ai. (cd)), giữa một và nhiều (Đói ḷng ngồi gốc cây
sung/chồng một th́ lấy, chồng chung th́ đừng.
(cd)), giữa cái này và cái khác (Lấy anh em biết ăn ǵ/
Lộc sắn th́ chát, lộc
si th́ già. (cd), Tôi đă biết tính chồng tôi/ Cơm no th́nước , nước thôi (th́) lại trầu (cd)), giữa phạm trù này với
phạm trù khác (Sức th́ hai người ngang nhau; Gạo
th́ có gạo nếp, gạo tẻ)…
Và không chỉ có lưỡng
phân: Cái th́ nó vứt, cái th́ nó cho, chỉ một vài cái thật
quí th́ nó mới mang theo.
Thời gian và không gian là những
tập hợp vô hạn được sắp thứ tự,
mỗi điểm trong đó được xác định
phân biệt với những điểm khác. Do vậy, những từ ngữ chỉ không điểm,
không đoạn và thời điểm, thời đoạn tạo thành những phân cắt của
không gian và thời gian: Lúc tôi đến th́ Giáp đi rồi./ Lúc nào cậu
về th́ mợ đánh thức
Dần (NCH)./ Lúc nó trồi đầu lên th́ đă thấy chị cười.(CĐBT)/ Hôm nay th́ anh ấy khá rồi./ Đi
một thôi th́ gặp
đường ṃn./ Tôi cảm giác sự đổ vỡ
khi Điền đuổi theo chị, và chị th́ chạy theo cha. (CĐBT)
1.2.3.3. Với quan niệm phân
cắt tập hợp[2],
chúng ta giải thích được nhiều hiện tượng
được bàn luận là “chuẩn”
hay “không chuẩn” trong tiếng
Việt.
Tiêu chí [+ đếm
được], [- đếm được] (
[±
ĐĐ ]) là tiêu chí đầu
tiên quan trọng nhất trong quá tŕnh phân loại danh từ
. Có nhiều công tŕnh phân loại danh từ tiếng Việt
dùng tiêu chí này làm xuất phát điểm. Chẳng hạn,
các danh từ [– ĐĐ] “biểu
thị một khối vô h́nh thù gồm những đặc
trưng phẩm chất hay vật liệu có tác dụng
phân biệt những phạm trù và những chủng
loại … Các danh từ [– ĐĐ] không có tính cá thể,
phân lập về h́nh thức, mà có
tính chất liệu
([+CL]), phân lập về nội dung.” [45:267]. Theo tác giả, ḅ,
thợ, kèn, cam, mây… là cácdanh
từ [– ĐĐ] và có tính chất liệu [+CL]. Tác giả cho rằng “các danh
từ [– ĐĐ] không thể xuất hiện ở
văn cảnh này”, tức là “----- th́ VỊ NGỮ” hay
“----- th́ CHỦ NGỮ”
(lặp lại y nguyên một hay nhiều lần với những
vị ngữ khác nhau)”. Và
nêu ra những câu mà tác giả cho là không chuẩn:
*Ḅ th́
béo, ḅ th́ gầy.
* Thợ th́ đi làm, thợ th́ nghỉ. [45:269]
Thực
ra, có những ngữ cảnh chấp nhận những câu
trên đây là chuẩn.
Chúng ta
quan niệm: về bản chất, danh từ [– ĐĐ] là danh
từ tập hợp:Mỗi danh từ [– ĐĐ] trỏ một tập hợp có nội hàm xác định.
Mặt khác, chính mỗi danh từ
[– ĐĐ] cũng
trỏ một phần tử
(tức là một đối tượng) của tập
hợp cùng tên. Do vậy, những tập hợp này không
phải là tập hợp rỗng, nghĩa là đều có
phần tử. Danh từ ḅ
cũng trỏ một phần tử của tập hợp
các con ḅ. Như vậy, mỗi danh từ [– ĐĐ], ḅ chẳng hạn, được dùng với hai
cương vị: 1) trỏ
một tập hợp; 2) trỏ một phần tử
của tập hợp.
Ví dụ: Ta có tập hợp {gà, ḅ, thằn lằn, thạch
sùng, rắn} (thuộc tiểu loại danh từ
[–
ĐĐ].Đơn vị
của tập hợp này được từ vựng hoá
thành từ “con”. Trong tiếng Việt luôn luôn tồn
tại danh từ đơn vị cho mỗi danh từ [-
ĐĐ]. Dùng với tư
cách một tập hợp (một loài), ta nói “ ḅ là loài nhai lại” mà không
cần nói “con ḅ là loài nhai lại”
Ngữ cảnh cũng cho phép hiểu một từ, từ
ḅ chẳng hạn,
được dùng như một tập hợp bộ phận
ở những câu sau: “Đây là ḅ cày, kia là ḅ sữa”. Không
nhất thiết phải nói “Đây là con ḅ cày, kia là con ḅ
sữa”. Với tư cách là một
tập hợp, dù trong thành ngữ, tục ngữ, thơ ca
hoặc trong cách dùng của một
cá nhân nào đó có xuất hiện danh từ đơn vị th́ nó cũng đều có thể
lược bỏ. Trong ví dụ sau có thể bỏ con, ông, nén, cái: “con cá
có vây, ông thầy có
sách”, “nén bạc đâm toạc
tờ giấy”, “mồm thở ra gió là cái quạt ḥm”. Dùng với
tư cách một phần tử của tập hợp, ta
nói “con ḅ”, “5 con ḅ”, “những con ḅ”, “mấy con ḅ”, “ăn nửa
con ḅ”.
Cho rằng những DT như ḅ, gà, kẹo, sách, bút… chỉ là
DT [– ĐĐ] là không thoả
đáng. Thật vậy, ḅ, gà,
ngan… cũng là những khái
niệm có nội hàm xác định, nghĩa là chúng có những tính chất (hay thuộc
tính) để phân biệt với những khái niệm khác.
Vậy th́ chúng cũng trở thành những phần tử của một tập hợp
khác, tập hợp gia cầm hay gia súc chẳng hạn,
lúc đó chúng cũng đếm
được: “Đàn gia cầm nhà này vừa bị mất
mười con: năm gà, ba vịt,
hai ngan”. Kết quả làḅ, gà, vịt, ngan… có lúc không
đếm được, có lúc đếm được.
Sự
phân chia danh từ thành [+ ĐĐ] và [ – ĐĐ] không ảnh
hưởng đến cấu trúc “A1 th́ x, A2 th́ y, A3 th́ z…” dùng để phân cắt tập hợp A thành những tập
hợp con bộ phận. Cả
hai loại danh từ đều có thể trở thành một
tập hợp nên đều có thể phân cắt thành những
tập
hợp bộ phận: “Cái th́ nó vứt, cái th́ nó cho, chỉ
một vài cái thật quí th́ nó mới mang theo.”, “Chó th́ đứng, mèo th́ nằm”,
“Tường này đầy những vết. Vết th́ đen, vết th́ vàng, vết th́ xám xịt”. “(Trời sao ăn ở bất
công), người th́ nghèo rớt
mồng tơi, người th́ giàu nứt đố đổ
vách”, “Trong vụ đấu tranh này, họ chẳng nhất
trí với nhau, thợ th́ đi
làm, thợ th́ nghỉ”, “Cùng một giống, mà sao ḅ th́ béo, ḅ th́ gầy”…
1.2.4.
Chức năng khác của từ th́: Cặp “nếu…
th́” để tạo câu so sánh, đối chiếu hai đối tượng có những
thuộc tính phân biệt.
“Nếu
như người bố ăn nói nông nổi th́ hắn lại
suy nghĩ rất chi li trước khi cất lời” (NK);
“Nếu như Kim Cúc hồn nhiên th́ Đàm Liên rất nhạy
cảm.” (VN, 1972)
Sự đối chiếu này
nhiều khi chỉ mang tính chất tu từ: “Nếu Hà Nội
là trái tim của Việt Nam th́ Hồ Gươm là linh hồn
của Hà Nội.”
2.
Cấu trúc nghịch nhân quả: nghĩacủa cặp
từ hư[3]
2.1.Đặt vấn đề
Những vấn
đề ngữ nghĩa và ngữ pháp
V́ sao nghĩa hai câu
(1) và (2) khác nhau?Khác nhau thế nào?
(1)
Anh ấy là người tốt.
(2)
Tuy nhiên, anh ấy là người tốt.
Hàm ư của câu (2),
(3), (8), (9) là ǵ?V́ sao?
(3)
Tuy vậy, cô ấy vẫn
thành công.
Do đâu hai câu (4) và (5) có hai hàm
ư ngược nhau?
(4)
Mẹ: Thằng Ba đẹp trai nhưng nghèo lắm, con ơi!
(5)
Con gái: Anh ấy nghèo nhưng
đẹp trai, má à!
(6)
Tuy
mọi thứ đều tăng, nhưng giá quyển sách này vẫn 15
đồng.
(7)
Tuy Tú Xương có tài
nhưng thi mấy lần vẫn trượt.
(8)
Tuy nhiên,
giá quyển sách này vẫn 15 đồng.
(9)
Ấy thế mà giá quyển sách này
vẫn 15 đồng.
(10)
Anh Ba vừa nói, chủ
toạ cuộc họp đã
ngắt lời.
Ngữ pháp truyền thống phân tích những câu (6),
(7), (11) – (17) thế nào?
(11)
Mới
khỏi rên đã quên
thầy. (TN).
(12)
Mới đóđă hết năm rồi.
(13)
Chưa
đến 10 ngày đã
xong công việc.
(14)
Đã
9 giờ rồi nó vẫn
chưa đến.
(15)
Chưa đỗ ông nghè đă
đe hàng tổng. (TN)
(16)
Đă già c̣n dại.
(17)
To đầu mà dại.
Có
những vấn đề sau đây được
đặt ra:
2.1.1.Quan niệm trong ngôn ngữ học
đại cương cũng
như trong truyền thống Việt ngữ học,
các câu (6), (7) được gọi là câu
phức theo quan hệ “nhượng bộ” (xem
[53]), chúng phản ánh quan hệ nhượng bộ hay trở ngại giữa hai vế. Khái
niệm này được Hoàng Tuệ giải
thích chi tiết hơn ở [87],và quan hệ
này do cặp liên từ tuy-nhưng
đảm nhiệm. Khái niệm “nhượng
bộ” chưa được giải thích rõ
ràng. Từ câu (7) chúng ta
có thể hỏi v́ sao “có tài” lại trởngại
/nhượng bộ với việc thi trượt?
Vậy th́ hai thuật ngữ
này có phản ánh đúng
quan hệ ngữ nghĩa
giữa hai vế của câu trên?
Quan
hệ ngữ nghĩa giữa hai vế A và B trong
cấu trúc tuy A nhưng B chưa được
miêu tả, cho nên chúng ta sẽ lúng túng khi
phải giải thích những câu hỏi như:
Vì sao câu (6) chấp nhận được, trong khi
câu (18) dưới đây có cùng cấu trúc
lại không chấp nhận được?
(18) Tuy mọi thứ không
đổi, nhưng giá
quyển sách này *vẫn 15 đồng.[4]
Cũng
chính vì chúng ta chưa miêu tả (hoặc
chưa chú ý miêu tả) nghĩa của các câu (2),
(3), (8), (9) nên chúng ta chưa trả lời được
câu hỏi, chẳng hạn ở câu (8) ngoài
điều thông báo rõ ràng “giá” quyển
sách này vẫn 15 đồng” còn có
những điều gì nữa? Khó mà
chấp nhận một quá trình giao tiếp
mở đầu bằng phát ngôn (8).Nghĩa
là trước (8), bao giờ cũng có
một phát ngôn P nào đấy, hơn nữa P
phải là phát ngôn làm chúng ta nghĩ
rằng “giá quyển sách sẽ thay đổi”.
Đại để, P phải là “mọi thứ
đều tăng” hay “mọi thứ đều giảm”
chứ không thể là “mọi thứ không
đổi”. Thật thế, cứ xem tính chấp
nhận được hay không của các chuỗi
sau đây thì rõ. Có thể nói:
(8b) Mọi
thứ đều tăng.Tuy nhiên, giá quyển
sách này vẫn 15 đồng.
Nhưng
không thể nói:
(8c) Mọi
thứ không đổi. Tuy nhiên, giá quyển
sách này *vẫn 15 đồng.
Thế
nghĩa là cấu trúc “Tuy
nhiên P” có định
hướng nghĩa như sau: “Trước
đó có một phát ngôn P làm
người nghe nghĩ rằng sẽ xảy ra
sự kiện không P”. Do
đâu mà cụm tuy nhiên
đã gây ra định hướng nghĩa
này? Để giải thích, không thể không
tìm hiểu nghĩa của cặp từ tuy-nhưng (về khái
niệm định
hướng nghĩa, xem §1. chương 2).
2.1.2.
Phần thông báo rõ ràng của câu (9) giống
của câu (8). Định hướng nghĩa của
câu (9) cũng giống của câu (8).Chúng tôi nói hai
câu ấy đồng nghĩa với nhau.Có đường
liên hệ nào giữa hai cấu trúc “tuy nhiên P” và “ấy thế mà P” không?
Chúng tôi sẽ chứng minh rằng chúng
có cùng nguồn gốc từ cấu trúc “tuy A nhưng B”. Một
cách khái quát, có những câu đồng
nghĩa cùng xuất phát từ một cấu
trúc gốc. Nghiên cứu vấn đề này
sẽ phát hiện ra bản chất của nhiều
hiện tượng thú vị trong tiếng Việt.
2.1.3.
Về các câu (10) – (14), chúng ta cũng xếp
chúng vào loại câu phức “dùng phụ
từ thành cặp”
[64:211]. Quan hệ ngữ
nghĩa giữa hai vế A và B trong những
câu phức kiểu này có giống như trong
câu phức “Tuy A nhưng B”
không? Chúng tôi cũng sẽ chứng minh rằng
những câu phức
dùng các cặp phụ từ trên đây
được hình thành trên cơ sở câu
phức dùng cặp từ nối
tuy-nhưng.
2.1.4.
Chúng ta lại gặp những câu
phức được hình thành nhờ
ba, bốn từ phụ, như:
(19)
Đến X (mà) còn B nữa là Y.
Cấu trúc vắng liên từ
này đề cập tới hai đối
tượng X và Y, ắt để nói lên
một quan hệ nào đó giữa X và Y.
Trong trường hợp này là quan hệ so
sánh. Người ta so sánh sự vật theo
một thuộc tính nào đó. Ở (19)
chỉ nói tới thuộc tính B, như thế
đây là một sự so sánh giữa X
và Y theo thuộc tính B. Nghĩa của (19) như
sau:
+ Y xếp
trên X (mạnh hơn X) xét theo thuộc tính B.
+ Vậy tất yếu, Y có thuộc
tính B.
Điều
đáng chú ý là kết luận suy ra
từ câu (19) “tất yếu Y có thuộc tính
B” là một sự khẳng định ngầm
hay là hàm ư của nó. Cơ sở cho điều
khẳng định (ngầm) này, cần được
giải thích, chứng minh theo tính chất mà X và Y so sánh
với nhau khi sắp xếp trên cùng một thang độ.
Điều này được thể hiện ngay
trong câu (19), lối chứng minh này tựa
như luật tam đoạn luận trong lôgic.Loại
hiện tượng thú vị này có
ở những câu phức chứa nhiều
từ luôn đi với nhau thành chuỗi
cần được nghiên cứu và khai
thác.
Chúng
tôi sẽ minh hoạ các vấn đề trên đây qua
sự phân tích cấu trúc nghịch nhân quả
trong tiếng Việt.
2.2.Cấu trúc
nhân quả
Xét các câu sau và
dạng thức khái quát của chúng:
(20)
Nếu trời mưa thì đường
ướt. Dạng thức “Nếu A thì B”
(21)
Vì trời mưa nên đường
ướt. Dạng thức “Vì A nên B”
(22)
Hễ trời mưa là đường
ướt. Dạng thức “Hễ A là B”
Chúng
ta thường gọi là câu 20 là câu
điều kiện – kết quả, câu 21 là câu nguyên
nhân – kết quả, câu 22 là câu nêu qui luật nhân
quả.
Sự
khác nhau của mấy câu trên như sau: Trong câu (20)
thì A và B chưa xảy ra, trong câu (21) thì A
và B đã xảy ra, còn trong (22) thì A
và B đã từng xảy ra nhiều lần.
Nhưng ba câu trên có một điểm chung cơ
bản: Quan hệ giữa A và B là quan hệ nhân – quả. A là nguyên nhân
gây ra kết quả B. Vài ví dụ khác về quan hệ nhân
quả:“già th́ yếu, trẻ th́ khoẻ”,
“chăm học th́ giỏi”, “thất bại liên tiếp th́ nản chí”, “ở hiền th́ gặp
lành”…
Vì
thế, có thể gọi chúng bằng một
tên chung: Đó là những câu phức nhân –
quả. Quan hệ này trong lôgic gọi là phép
kéo theo và thường miêu tả bằng kư
hiệu A ̃
B. Như vậy, miêu tả bằng ngôn ngữ lô
gích mệnh đề, các câu phức nhân – quả
đều có phần nghĩa chung là A ̃ B (dấu ̃ trỏ quan hệ kéo theo).
Có
thể đưa một số kiểu câu khác
nữa vào loại câu phức nhân quả,
như: Cứ A là B,
Động A là B, Tại A nên B, Do A mà B, Giá
như A thì B. Kiểu cuối cùng này
thường được gọi là câu
giả định, nó giống câu (20) ở chỗ
A và B đã không xảy ra, nhưng lại khác
(20) ở chỗ là đã xảy ra hai sự kiện
A’ và B’ trái ngược với A và B.
Dùng
khái niệm câu nhân quả, bức tranh về câu
của chúng ta sẽ đơn giản hơn, tường
minh hơn và khái quát hơn.
2.3.Cấu trúc nghịch nhân quả
Thật ra, câu (7) “Tuy Tú Xương có
tài nhưng thi mấy lần vẫn trượt” chứa
một quan hệ bao quát hơn quan hệ nhượng bộ
theo quan niệm truyền
thống. Đây là quan hệ nghịch nhân quả - một quan hệ tráingược với lẽ thường
về quan hệ nhân quả.
Đây là kiểu quan hệ của những
t́nh huống có những người già mà vẫn khoẻ,
chăm mà vẫn không giỏi, thất bại nhiều
nhưng vẫn không nản chí, ở hiền nhưng số
phận vẫn long đong, gặp nhiều oan trái…
2.3.1. Giả
sử giữa hai đối tượng, hai
sự kiện X và Y có quan hệ nhân quả A ̃ B, nghĩa là khi X ở
trạng thái A thì Y sẽ ở trạng
thái B. Thông thường là như thế.
Nhưng trong thực tiễn cũng có những
trường hợp không bình thường
và xảy ra điều ngược lại: X đã
ở trạng thái A mà Y chưa ở
trạng thái B, hoặc X chưa ở trạng
thái A nhưng Y đã ở trạng thái B.
Ở những trường hợp
nghịch với lẽ thông thường ấy,
chúng ta nói rằng giữa X và Y
đã xảy ra quan hệ nghịch nhân quả.
Trong
tiếng Việt có những h́nh thức ngôn ngữ
khác nhau phản ánh quan hệ nghịch nhân quả
giữa hai hiện tượng, giữa hai
sự kiện và chúng ta gọi chúng là
những cấu trúc nghịch nhân quả.
2.3.2. Sơ
đồ lô gích biểu hiện quan hệ nhân quả
giữa hai đối tượng, hai sự
kiện X và Y là I. Ý nghĩa của nó như
sau: Khi X ở trạng thái A thì Y ở
trạng thái B, khi X ở trạng thái C thì
Y ở trạng thái D.
Sơ
đồ lô gích biểu hiện quan hệ nghịch nhân
quả giữa hai đối tượng, hai sự kiện X và Y là II hoặc III.
nhưng (mà)
(I) Tuy
A song D
nhưng (mà)
(I’) Tuy C song B
Ví
dụ: “Tuy học ít, nhưng vẫn giỏi”, “Tuy
còn mệt, nhưng vẫn cố đi làm” “Tuy
chỉ thoáng nghe nhưng đã nắm
vững vấn đề”…Thông thường,
nếu học ít thì sẽ không giỏi, nếu
chỉ thoáng nghe thì sẽ không nắm
vững vấn đề. Đôi khi học ít
mà vẫn giỏi. Đó là điều
khác thường, vì thế câu “Tuy học
ít, nhưng vẫn giỏi” mới được
gọi là câu biểu hiện quan hệ nghịch nhân quả.
2.3.3. Ánh xạ từ sơ đồ
lô gích vào sơ đồ ngôn ngữ. Khi các
đối tượng X và Y có các
sự kiện xảy ra theo thứ tự
thời gian, nghĩa là A xảy ra trước
C và B xảy ra trước D thì chúng ta
gặp hai trường hợp nghịch nhân –
quả khác nhau.
2.3.3.1.
Trường hợp 1 (sơ đồ II ánh xạ
vào sơ đồ IIA): X mới
ở trạng thái A nhưng (mà) Y đã vượt qua B để sang
trạng thái D. Đó cũng là X c̣n ở trạng thái A nhưng (mà) Y đă sang trạng
thái D. Cũng có thể
nói rằng X chưa
sang trạng thái C nhưng (mà) Y đã sang trạng thái D. Sơ đồ
lô gích-ngôn ngữ của trường hợp này là IIA
Dạng
thức ngôn ngữ của IIA là:
(II) Tuy X chưa C nhưng (mà) Y đã D
(vẫn) c̣n A
song
Chúng
tôi và Nguyễn Hữu Hoành [49] gọi đây
là những cấu trức nghịch nhân quả sớm, vì
rằng Y đã chuyển trạng thái
sớm hơn điều thường thấy.
2.3.3.2.
Trường hợp 2 (sơ đồ III ánh xạ
vào sơ đồ IIIA): X đã
chuyển sang trạng thái C nhưng Y vẫn còn ở trạng thái B.
Cũng có thể nói rằng X đã chuyển sang trạng thái C nhưng
Y vẫn chưa chuyển
sang trạng thái D. Sơ đồ lô gích-ngôn ngữ của
trường hợp này là IIIA.
Dạng thức ngôn ngữ
của IIIA là:
(III)
Tuy X đã C song Y vẫn (còn) chưa D
Đây là cấu trúc nghịch nhân quả muộn.
2.4.Nghĩa của
cặp từ
2.4.1.
Trong một phát ngôn nêu quan hệ giữa hai
đối tượng X và Y có hai thành
phần, thường là hai mệnh đề,
một nói về X và một nói về Y.
Thường có một cặp từ liên kết
hai mệnh đề này. Có những
cặp liên từ khác nhau cũng trỏ một
quan hệ lôgic, như vì A
nên B, vì A mà B, vì A hèn chi B, nhưng trong
những trường hợp đó, bao
giờ yếu tố thứ nhất cũng
trùng nhau. Do vậy mà chỉ cần xuất
hiện liên từ nói về X (bộ phận
thứ nhất) là người nghe biết
được rằng sẽ gặp một câu
nói về một kiểu quan hệ giữa X
và Y. Liên từ thứ nhất ấy cho chúng ta
biết đó là kiểu quan hệ nào.
Chẳng hạn, khi gặp một câu bắt
đầu bằng Nếu…là
chúng ta biết được ba điều sau:
a) Sẽ gặp một câu nói
về hai đối tượng X và Y.
b) Quan hệ giữa X và Y
là quan hệ (thuận) nhân quả.
c) Các điều nói về X
và Y đều chưa xảy ra.
Đó là nghĩa của
từ nếu. (Tất
nhiên, chúng tôi không nói tới cách dùng
đặc biệt của cặp từ nếu-thì
để biểu thị quan hệ so sánh, đối
chiếu, xem [12]). Tương tự, chúng ta xác
định được nghĩa của vì, hễ, tuy…
2.4.2.
Khi gặp một câu bắt đầu bằng
“tuy…” là chúng ta
biết được ba điều sau:
a) Sẽ gặp một câu nói
về hai đối tượng X và Y.
b) Quan hệ giữa X và Y
là quan hệ nghịch nhân quả.
c) Các điều nói về X
và Y đều đã xảy ra.
Đó là nghĩa của tuy. Nhưng chúng ta còn
chưa biết được, giữa X và Y
xảy ra quan hệ nghịch nhân quả theo kiểu
nào nếu như X và Y có các sự
kiện xảy ra theo thứ tự thời gian.
Trong trường hợp này, các cặp
từ tình thái và từ thời gian
sẽ cho ta biết tiếp đó là kiểu
nghịch nhân quả sớm hay muộn. Thật
thế, chẳng hạn khi gặp chuỗi
từ tuy còn...là
chúng ta biết được, ngoài các
điều a-b-c ở phần này, đây là
một câu nói về quan hệ nghịch nhân quả
sớm. Vì rằng trong ba cấu trúc
bắt đầu bằng tuy thì chỉ có cấu trúc II
mới xuất hiện từ còn đứng ngay sau tuy. Như vậy khi từ còn đứng sau tuy, chúng ta sẽ biết được
thêm ba điều sau:
d) Quan hệ giữa X và Y
là quan hệ nghịch nhân quả sớm.
e) X chưa chuyển trạng thái.
g) Y đã chuyển trạng
thái (Đây là một hệ quả lôgic của hai
điều d và e, nghĩa g này được
chỉ ra rõ ràng nhờ từ đã trỏ trạng thái
đă xảy ra).
Như vậy, các điều d – e
– g trên đây là nghĩa của cặp còn – đã và
đó cũng là nghĩa của cặp chưa – đã, mới – đã.
Sự khác biệt giữa còn- đã và chưa – đã chỉ ở điểm
sau đây: cặp thứ nhất nói về
trạng thái A của X, còn cặp thứ
hai nói về trạng thái C của nó.
Tương tự, căn cứ vào cấu
trúc III phản ánh sơ đồ III mà
chúng ta xác định được nghĩa
của các chuỗi từ đã – vẫn (còn), đã – vẫn (c̣n) chưa.
2.4.3. Khi cặp còn – đã mang nghĩa d (quan hệ
giữa X và Y là quan hệ nghịch nhân quả
sớm) thì chính nghĩa này cũng
chứa đựng nghĩa b (hai đối
tượng có quan hệ nghịch nhân quả).
Thế là cặp tuy –
nhưng trong cấu trúc tuy
còn – nhưng đã (cấu trúc II)
trở thành dư và có thể lược
bỏ một phần hay toàn bộ mà câu vẫn
giữ nguyên ý nghĩa cơ bản.
Cặp từ
“đă …nhưng (c̣n) chửa…”
trong câu thơ “Học đă sôi cơm nhưng[c̣n] chửa chín, /[Thi không ngậm ớt thế
mà cay](Tú Xương ) phản ánh quan hệ nghịch
nhân quả muộn, phản ánh số phận long đong lận
đận đắng cay của nhà thơ kiệt xuất
này. Mà muộn là chậm là
măi mà thành công vẫn chưa đến. Câu thơ thứ hai là lời b́nh rơ ràng chuyện ngược đời
này.
Toàn bộ các
nghĩa a – b – c – d – e – g đều được
thể hiện trong cặp còn
- đã. Tới
đây chúng ta đã giải thích
được vì sao cặp còn – đã tuy không là cặp liên từ
theo cách gọi truyền thống, nhưng vẫn
được dùng để liên kết hai vế
câu. Hoàn toàn tương tự như vậy,
chúng ta giải thích được vì sao
các cặp mới –
đã, chưa – đã, đă c̣n, đã –
vẫn, đã – chưa [/chửa]
cũng trỏ những kiểu quan hệ nghịch nhân quả
và được dùng để liên kết hai vế
câu. Tức là có những cặp từ đặc
thù trỏ quan hệ NNQ sớm và NNQ muộn:
NNQ
sớm:
(II) ̃ (IIa) c̣n…(mà)
đă; mới … (mà) đă…; chưa… (mà) (cũng) đă…
NNQ
muộn:
(III) ̃ (IIIa)
đă…(mà) vẫn …; đă (mà) c̣n; đă … (mà)
(cũng)(vẫn) chưa…
Điều thú vị là sự
phát hiện ra nghĩa của những cặp từ trên
đây đă giúp chúng ta dễ dàng giải thích được
ngữ nghĩa cũng như cấu trúc cú pháp của những
câu vắng chủ ngữ, như (12) – (14), (16) và những tục ngữ dùng các cặp
từ này, như (11), (15) mà các sách ngữ pháp trước
đây cũng như các từ điển tục ngữ
đă bỏ qua không giải thích hoặc gán cho chúng tên gọi
“câu đặc biệt”. Chẳng
hạn như “Đă 12 giờ đêm ông vẫn
c̣n ngồi làm việc.” , “Sao giờ này anh vẫn c̣n ở nhà?”, “Tôi làm việc
đă gần 30 năm mà lương vẫn c̣n ở mức
ba phết mấy.”, “Đă tháng năm mà vẫn c̣n gió mùa
đông bắc.”, “Đă già c̣n
chơi trống bỏi”, “Mới ngày nào mái tóc c̣n xanh/ Mà nay đă phơ phơ
đầu bạc”
“Chưa đỗ ông nghè đă
đe hàng tổng”; “Chưa tập [/học] ḅ đă lo tập
[/học] chạy”; “Chưa vỡ bọng cứt đă
đ̣i bay bổng”; “Chưa khỏi ṿng đă cong đuôi”;
“Mới [/chưa] thăm được ván đă vội
bán thuyền”; “Mới [/chưa] để lên môi đă trôi
xuống miệng”. Tục ngữ cuối cùng này nói về
món ăn, và quan hệ nghịch nhân quả sớm, chưa
ăn đă trôi xuống miệng, tức là món ăn ngon
quá! Có vậy thôi.
2.4.4.
Chính nhờ đã xác định
được nghĩa của những cặp
từ trên đây mà chúng ta định
hướng được nghĩa của
những bộ phận trong câu phức chứa
các cặp từ này. Chẳng hạn
trong các câu phức sau:
(23) Nếu mới A (mà)
đã D thì E.
(24) Nếu đã C (mà) còn
B thì E.
(25) Vì chưa C (mà) đã D
nên E.
Cách định hướng
nghĩa như sau: Mấy cấu trúc trên đây
đều biểu thị quan hệ nhân quả, mà E
là kết quả, còn nguyên nhân ở trong 23
chẳng hạn, là mới A đã D. Mà
nguyên nhân là một điều bất thường
(nghịch nhân quả sớm), nên theo cấu trúc nhân
quả nếu – thì,
phần E cũng phải là một điều
khác thường, cũng là nghịch nhân quả sớm,
phù hợp với nguyên nhân của nó.
Chúng ta có thể nói “Nếu mới 12 tuổi mà đã làm được toán
lớp 12 thì sau
này sẽ giỏi lắm”. Nhưng khó mà
chấp nhận được lối tư duy “*Nếu
mới 12 tuổi mà
đã làm
được toán lớp 12 thì sau này sẽ bình
thường”, hoặc nói “Nếu mới học mà đã quên thì trí nhớ của anh bạn
quả là tồi”, chứ không thể nói “*Nếu
mới học mà đã quên thì anh bạn thuộc loại thông minh”.
“Người trai mới vài lần thoáng gặp/ Luôn hy
vọng để rồi thất vọng/ Ta đă cười đă khóc những
không đâu.” (Xuân Quỳnh, có một
thời như thế)
“Vô duyên chưa
nói đă cười”
“Thủ tướng cũng đă đề xuất mà dự
án Luật biểu t́nh vẫn chưa được đưa vào
chương tŕnh năm 2014” (Những Lê, VnEconomy)
“Mới
b́nh minh đó đă
hoàng hôn/ Đang nụ
cươi tươi bỗng
lệ tuôn” (Tố Hữu)
“Hôm qua c̣n
lấm tấm/ Chen lẫn màu lá xanh/
Hôm nay (đă)
bừng lửa thẫm/ Rừng rực cháy trên cành” (Hoa
phượng)
“Chưa
già mà đă có râu/
Cái con dế suốt đêm thâu hát ǵ?”
“Tuy nó
là con chủ tịch tỉnh/ Nhưng thầy vẫn cho điểm
kém”
2.4.5.
Vài dạng đặc biệt của cấu trúc ngôn ngữ
nghịch nhân quả
(37) Không A cũng B
Quy luật nhân quả là“nếu có A th́ có B, nếu có C
th́ có D” (sơ đồ I). Không cóAmà cũng có B, tức là chưa có ǵ mà
đă có B – một trường hợp nghịch nhân quả
sớm đặc biệt.
Nói cách khác, hiện tượng B mạnh [/sớm]
đến nỗi không cần A mà cũng có B. Ví dụ:
(26) [Lớp lớp mây cao đùn núi
bạc,/Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa./ Ḷng quê
dợn dợn vời con nước,]/Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhà.”(Tràng giang, Huy Cận)
Cặp từ không …
cũng trong khổ thơ
này nói rằng, b́nh thường theo quan hệ nhân quả khói hoàng hôn gây ra nỗi nhớ
nhà, nhớ bữa cơm
chiều cả gia đ́nh quây quần bên nhau. C̣n không khói
hoàng hôn cũng nhớ nhà là nỗi nhớ nhà vô cùng
tận.
(38)C mà cũng (vẫn)
chưa D
Quy luật nhân quả
là“nếu có A th́ có B, nếu có C th́ có D” (sơ đồ I).
Ấy thế nên dạng thức ngôn ngữ III trở thành
một trường hợp nghịch
nhân quả muộn đặc biệt: C mà cũng (vẫn) chưa D. Người nói
hiểu C là điểm cuối xảy ra sự kiện.
Trong hai câu dưới đây C
= giờ này, sắp C » C:
(27) Giờ này mà nó vẫn chưa
đến.
Hàm ư của câu trên là nó phải đến
trước giờ này khá lâu rồi.
(28) “Sắp đánh nhau rồi mà c̣n đi mua táo, [kháng chiến ǵ những người
này]” (Những người ở
lại, NHT)
Từ ‘mà’ cho biết câu (28) có hàm ư “người
ta có thể đi mua táo vào lúc nào chứ lúc này (sắp đánh nhau rồi)
th́ không được đi mua táo.”
“Măi [/Tận] A
mới D”
Trong tiếng
Việt từ trợ từ măi
có nghĩa là “một cách kéo dài liên tục như không
muốn ngừng, không muốn dứt” [82] hoặc là
“đến tận một thời điểm nào đó sau
một thời gian kéo dài khá lâu sự việc mới
xảy ra…”.C̣n tận là “lúc
đến đấy là hết, là giới hạn cuối
cùng” (năm cùng tháng tận) [82].Tức là sự việc
không xảy ra như b́nh thường mà rất lâu, thậm
chí cuối cùng mới xảy ra. Như vậy, hai cấu
trúc “măi
A mới D”, “tận A mới D” cũng thể hiện
hai trường hợp đặc biệt của quan
hệ nghịch nhân quả muộn.
(29) Măi đến giờ tôi mới biết
chuyện đó.
(30) Măi tận 10 giờ
đêm Năm mới biết tin.
Tức là: Trong một thời
gian dài tôi không biết chuyện đó, Năm không biết
tin. Hàm ư của hai câu trên là: Tôi biết chuyện đó quá
muộn, Năm biết tin quá muộn.
2.5.Giải thích
nghĩa của câu
Biết các
cấu trúc nghịch nhân quả, biết nghĩa
của các cặp trợ
từ (trong hai mô h́nh rút gọn) chưa
– đă, mới –
đã, c̣n – đã, đă c̣n, đã – vẫn,
đã – chưa [/chửa]
cũng chuyển tải
được quan hệ nghịch nhân quả, chúng ta giải thích được rơ ràng
và có sức thuyết phục những cảm nhận về
hàm nghĩa của hàng loạt câu trong đời thường,
trong thành ngữ, tục ngữ
cũng như trong các tác phẩm văn học chứa
những cặp từ vừa nêu mà
mới xem thấy rất khó lí giải.
2.5.1.
Xét các câu:
(31) a. Còn trẻ mà tóc
đã bạc.
b.
Vẫn (c̣n) khoẻ mà đã xin nghỉ mất
sức.
c. Mới 9 giờ nó
đã đến.
d. Chưa 9 giờ nó đã
đến.
e. (Có những ngày trốn học đuổi
bướm ở cầu ao) Mẹ bắt
được…chưa
đánh roi nào đã
khóc. (Quê hương,Giang
Nam).
Những
câu 31 đều phản ánh cấu trúc nghịch
nhân quả sớm II.Câu 31a là dạng rút
gọn của câu “Tuy còn trẻ nhưng mà tóc
đã bạc”.Câu 31c là dạng rút gọn
của “Tuy mới 9 giờ nhưng mà nó
đã đến”.Vậy định hướng
nghĩa của cặp mới
– đã trong câu 31c là lư lẽ “lẽ ra sau 9
giờ nó mới được [/phải]
đến”. Câu 31e cũng là nghịch nhân quả sớm,
thông thường bị đánh mới
khóc, nhưng đứa bé quá khôn ngoan chưa
đánh đã khóc mới thành nghịch nhân
quả sớm. Lại xét:
(32) Tua rua đă xế ngang đầu /Saoem [c̣n] ở măi làm giàu
cho cha. (cd)
Dù là lời người con gái hay người con trai
th́ cặp từ “đă … c̣n”
cũng vẫn cho biết
quan hệ nghịch nhân quả muộn, một số phận
buồn: người con gái
đă ở lại nhà quá nhiều năm, đă đứng
tuổi rồi (mà vẫn chưa đi lấy chồng)
(33)
Hôm qua c̣ntheo anh/ Đi ra đường quốc lộ/ Hôm nay đă chặt cành/ Đắp cho người
dưới mộ. (Viếng bạn, Hoàng Lộc)
Liên kết hôm qua và hôm nay là cặp từ
“c̣n … đă”phản ánh
quan hệ nghịch nhân quả sớm: Hôm qua anh c̣n sống
mà hôm nay anh đă chết, anh
chết sớm quá, nhanh quá tức là anh hy sinh đột ngột
quá.Đó là hàm ư của khổ thơ trên.
2.5.2.
Xét hai câu 34:
(34)
a. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đến.
b. Tuy nhiên, giá quyển
sách này vẫn 15 đồng.
Con
đường đi tới câu 34b như sau: Câu 34b
tương đương với 34c.
(34c)
Tuy vậy, giá quyển sách này vẫn 15
đồng.
Vậy là một từ thay thế,
cho nên 34c được dùng trong chuỗi 34d.
(34d)
B. Tuy vậy, giá quyển sách này vẫn 15
đồng.
Trong 34d thì B là
một câu.Đến lượt mình, 34d lại
tương đương với 34e.
(34e)
Tuy B, nhưng giá quyển sách này vẫn 15
đồng.
Đó là lư do
làm chúng ta khi đọc câu 34b liền biết
rằng trước đó phải có
một câu B khiến ta nghĩ rằng giá quyển
sách này sẽ thay đổi.
2.5.3.
Xét câu 35:
(35)
Anh ấy thế mà
tử tế.
Điều thông
báo rõ ràng trong 35 là “Anh ấy tử
tế”. Nhưng định hướng nghĩa
của nó lại như sau: “Trước đó
có một phát ngôn P. Qua P người ta nghĩ
rằng anh ấy thuộc loại người không
tử tế. Nhưng không phải thế”. Do đâu
mà có định hướng nghĩa này?
Chúng
ta có thể lập một câu theo dạng (I) (mục
§2.3.2.):
(35b) Tuy anh ấy P, nhưng mà anh
ấy tử tế.
Trong
ngữ cảnh rõ ràng, chúng ta có
thể dùng từ thế
thay cho phán đoán P và 35b trở thành:
(35c) Tuy anh ấy
thế, nhưng mà anh ấy tử tế.
Như đã tŕnh bày, từ tuy báo hiệu rằng
sau đó sẽ có hai phát ngôn nói về X
và Y có quan hệ nghịch nhân quả với
nhau.Một khi X và Y xuất hiện thì riêng
từ nhưng cũng
đủ đại diện cho cấu trúc nghịch
nhân quả. Vì thế trong câu 35c, một mặt
có thể rút gọn từ tuy, mặt khác có thể rút
gọn cụm từ “anh ấy” đã dùng
lặp lại để đi tới 35. Quá
trình đó như sau:
(35d)
Anh ấy thế, nhưng mà anh ấy tử
tế.»
(35e)
Anh ấy thế, nhưng mà tử tế.»
(35g)
Anh ấy thế, mà tử tế.
Tới đây, chúng ta thấy
được bản chất của chuỗi thế mà, mỗi
từ gắn với một phán
đoán riêng biệt.
2.5.4.
Xét lối nói bỏ lửng 36:
(36)
Ấy thế mà…
Phát ngôn 36 không thông báo một
điều gì cả. Đây là lối nói
bỏ lửng trong giao tiếp. Và định
hướng nghĩa của nó như sau:
“Trước đó đã có một
phát ngôn P (nêu lên một nhận định, một sự
kiện hoặc một hành vi nào đó)
thông thường từ P suy ra thuộc tính a.
Nhưng người nói có ý trái
ngược lại với khuynh hướng suy
ra thuộc tính a, và lối nói bỏ
lửng 36 cốt để gián tiếp bác
bỏ khuynh hướng thông thường suy ra từ P”.
Thật thế, theo cấu trúc (I) (mục §2.3.2.)
chúng ta gặp lối nói:
(36b) Tuy P nhưng mà Q.
Thay P bằng từ
thế, và sau đó
khi không cần nói rõ điều nghịch nhân
quả suy ra từ P là gì, thì
người ta bỏ Q đi:
(36c)
Tuy thế, nhưng mà Q.
(36d)
Tuy thế, nhưng mà...
(36e)
Tuy thế mà...
Chúng
tôi coi 36e đồng nghĩa với 36, tuy thế đồng nghĩa với ấy thế, tức là “Tuy
thế mà” đồng nghĩa với “Ấy thế mà”. Vậy 36 cũng phản
ánh cấu trúc nghịch nhân quả và
điều này giải thích vì sao câu (3)
tương đương với câu (2).
Cách rút gọn
từ nhưng ở
35e và 36d để trở thành 35g và 36e
làm cho ra thấy rằng có những cấu
trúc nghịch nhân quả lại chỉ có từ mà để nối hai
vế (xem §3.3.) Điều này cho phép ta nhận ra
rằng cấu trúc 37 cũng là một cấu
trúc nghịch nhân quả.
(37)
Có mỗi P mà cũng Q.
Từ có (xem §2.1.) cho biết rằng P là
cái mức thấp, từ mỗi “dùng để nhấn mạnh thêm về mức
chỉ có chừng ấy (thường là một) mà thôi,
không có hơn” [82] làm cho cụm có
mỗi lại tăng thêm sắc thái mức rất
thấp, P là cái mức rất thấp mà thông
thường không thể suy ra Q được.
Ví dụ:
(38) Có bốn đồng
mà mày cũng cưới được
vợ à? (Sống
mòn, NC)
2.5.5. Vận
dụng cấu trúc nghịch nhân quả để giải
thích những câu sai về quan hệ nghĩa “ngược
đời”. Ví dụ:
(39) Và
với chúng tôi, vốn không mặn mà khuynh hướng
kỹ thuật hoá các tiết mục múa, cũng không
thể phủ nhận đây là một tiết mục
rất hấp dẫn, mặc
dù, rất bài bản và điêu luyện.
Dàn
dựng rất bài bản và điêu luyện theo lẽ
thường sẽ thành một tiết mục hấp
dẫn. Nói cách khác, hấp dẫn không tạo ra ư
ngược đời, đối lập với rất
bài bản và điêu luyện. Câu trên dùng sai từ mặc dù, cần thay bằng
từ và: “[…] đây là
một tiết mục rất hấp dẫn, rất bài
bản và điêu luyện’.
(40)Tuấn
cho biết rằng do nằm
ở ‘trận địa’ săn voi từ ngày đấu
đến giờ nhưng do sự ngăn cản của lực lượng bảo
vệ nên anh chưa hề ghi được h́nh ảnh
nào.[…] (báo, 16.11.2001)
Câu này sai ở cặp do …nhưng. Thật vậy, theo lẽ thường
nằm ở trận địa ngay từ ngày đầu hẳn
ghi được h́nh ảnh. Thế mà chưa ghi
được h́nh nào là chuyện ngược đời.
Vậy sửa bằng cách dùng cặp tuy – nhưng hay mặc
dù – nhưng: “Tuấn cho biết rằng mặc dùnằm ở ‘trận địa’ săn
voi từ ngày đấu đến giờ nhưng do sự ngăn cản của lực lượng bảo
vệ nên anh chưa hề ghi được h́nh ảnh
nào.”
(41) Đội Áo với vị
trí 92 …là đội bóng “đội sổ” trong 16 đội
có mặt ở VCK Euro 2008. Và cho dù là chủ nhà, 92 cũng là 92’ (báo, 09.6.2008)
Câu trên dùng sai từ
cũng. Thật vậy, với
lợi thế sân nhà trong bóng đá, theo lẽ thường
chủ nhà sẽ đạt được một kết quả nào đó chứ
không đội sổ. Chủ nhà mà đội sổ là chuyện
ngược đời. Theo cấu trúc (IV) từ cho dù
phản ánh quan hệ
ngược đời này và cho
dù đi thành cặp với“vẫn”
[cho dù…vẫn]chứ không với
“cũng”[cho dù…cũng]. Cần sửa thành: “Và cho dù là chủ
nhà, 92 vẫn là 92”.
2.6.Lưu ư
Ngoài ba cấu trúc
điển hình I – II – III (mục §2.3.), chúng ta
còn gặp những cấu trúc khác
cũng phản ánh quan hệ nghịch nhân quả:
Trong cấu trúc IV, sự
kiện A chưa xảy ra, nó chỉ có tính
chất giả định về A. Từ dù (/dầu) đã
tạo ra tính giả định này. Do đó,
cấu trúc IV dùng để biểu thị ý
chí của chủ thể nói: B tất yếu
sẽ xảy ra. Một câu hỏi còn bỏ ngỏ:
Vì sao thêm từ cho
vào phần đầu thì cấu trúc IV sẽ
tăng thêm sự nhấn mạnh? Như: “Cho dù A
nhưng vẫn B”, “Cho dầu A nhưng vẫn B”.
Trong khi đó,
ở cấu trúc V, từ mặc dầu có TGĐ rằng A và B
đều là những hiện thực đã xảy
ra. Ví dụ: “Mặc dù là
người miền Nam, chị ta cũng gắp thức
ăn tiếp tôi liền tay” (DTH, trong TNVN, 66).
Lại một câu hỏi khác:
vì sao trong cấu trúc V không thể nói “mặc
dẫu A…”?
2.7.Kết luận
Qua những điều
vừa trình bày, chúng ta thấy rằng
những từ đi thành cặp trên đây
bao giờ cũng biểu hiện quan hệ logic-ngữ
nghĩa giữa hai phán đoán về
những đối tượng, về
những sự kiện nào đó. Có
thể không khó khăn lắm để nhận ra
nghĩa và cách dùng của những cấu
trúc: càng A càng B,
đã A lại B, hèn chi A…Nhưng do dâu mà
cặp từ này mang nghĩa này,
cặp từ kia mang nghĩa kia? Theo chúng tôi,
mỗi kết cấu phức hợp có những
từ đi thành từng cặp đều
được hình thành trên một cơ
sở lôgic – ngữ nghĩa nhất định
để thể hiện một quan hệ nào
đó, chứ không phải chúng
được hình thành một cách võ đoán.
Rõ ràng là nhận ra được quan
hệ và cấu trúc nghịch nhân quả trong
tiếng Việt đã giúp chúng ta phân tích, lư
giải và thấy được bản chất
của nhiều hiện tượng ngôn ngữ
thú vị.
Đi tìm những
kiểu quan hệ lôgic – ngữ nghĩa cơ bản
giữa các đối tượng và
tìm ra những phương thức ngôn ngữ
thể hiện chúng, đồng thời đi
tìm những lối suy luận, những
phương thức tư duy để nhận
thức thế giới khách quan của
người Việt là một con
đường hợp lư để nhận ra
cơ sở logic-nghĩa của các cấu trúc
ngôn ngữ, đặc biệt là của
các cấu trúc phức hợp, qua đó
phát hiện được bản chất của
các hiện tượng ngữ pháp,
nhất là các hiện tượng ngữ
pháp phức hợp không do liên từ biểu
hiện.
[1]Phần này chỉnh lư bài: Nguyễn Đức Dân, Lô gích ngữ nghĩa của từ th́, Ngôn ngữ , số 11 &12, 2008
[2])
Về
những khái niệm tập
hợp, phần tử của tập hợp, tập
rỗng, tập hợp con (bộ phận) xem sách Toán 6 , tập I, nxb Giáo
dục, năm 2000, trang 3 – 9
[3] ) Phần này chỉnh lư lại bài: Nguyễn
Đức Dân, Ngữ nghĩa các từ hư, t/c Ngôn ngữ, số
4, 1984
[4] Theo một cách hiểu, câu này
vẫn chấp nhận được (tuy có
thể coi là không b́nh thường )