Sự chuyển nghĩa của những từ trỏ quan hệ và chuyển động trong không gian[1]
GS. TS.
Nguyễn Đức Dân
1.
Mở đầu
Từ lâu, nhóm từ định
hướng chuyển động trong không gian (ra, vào,
lên, xuống, về, lại…) và các từ tương ứng chỉ
quan hệ không gian (trên, dưới, trong, ngoài, trước,
sau…) đã được giới ngôn ngữ học Việt
Nam quan tâm. Trong đó có Nguyễn Lai, Nguyễn Đức
Dân, Lý Toàn Thắng, Vũ Thế Thạch… Trong bài này, chúng
tôi muốn tìm ra lô gích đặc thù của người Việt
khi nhận thức về hai lớp từ này. Hàng loạt
nghĩa khác nhau của mỗi từ trong những lớp từ
này sẽ được khái quát lại và giải thích hệ
thống qua khái niệm nghĩa nhận thức và con đường
chuyển nghĩa của từ.
2.
Giả thuyết về hiện
tượng chuyển nghĩa
2.1.
Có nhiều từ cơ bản đa
nghĩa. Ban đầu mỗi từ chỉ có một
vài, thậm chí chỉ một nghĩa gốc. Trong quá trình
tiến hoá ngôn ngữ, có sự phát triển về nghĩa
của chúng một cách lô gích theo những tình huống mới
và nhận thức mới của con người về
tự nhiên và xã hội. Ở đây có sự chuyển
nghĩa từ nghĩa gốc sang nghĩa phái sinh trên cơ
sở nhận thức của chúng ta về mối quan hệ
giữa các phạm trù, từ nhận thức phạm trù
không gian thành nhận thức cho các phạm trù khác.
2.2.
Sự phát triển về nghĩa của
một số từ cơ bản liên quan chặt chẽ tới
nghĩa nhận thức về những từ này. Đó
là nghĩa căn bản mà người Việt nhìn ra và khái
quát lên từ nghĩa miêu tả của một từ sau khi
lược bỏ những chi tiết, chỉ lại những
nét nghĩa tối thiểu đặc trưng cho những
phạm trù trong nhận thức về từ đó.
TĐTV
(Hoàng Phê chủ biên) định nghĩa:
(1)
Đi là “tự di chuyển
bằng những động tác liên tiếp của chân, lúc
nào cũng vừa có chân tựa trên mặt đất vừa
có chân giơ lên đặt tới chỗ khác”.
(2)
Lại là “Di
chuyển ngược chiều với sự di chuyển vừa
nói đến trước đó.”
Nghĩa nhận thức của đi
và lại như (3) và (4). Được thể hiện
như hình 2.1.
(3)
Đi = chuyển động + dời khỏi gốc
+ có mục đích
2.3. Những từ trỏ quan hệ
không gian dùng cho những quan hệ khác được
trừu tượng hoá thành quan hệ không gian. Cụ thể
là:
(2.3.C) Quan hệ không
gian chuyển thành những thuộc tính. Tức là, chúng
ta nhận thức những thuộc tính trong tự nhiên và
xã hội dựa trên những quan hệ trong không gian hình học.
(2.3.D) Những hành động
và sự kiện chuyển nghĩa thành những thuộc
tính tương ứng.
(2.3.E) Do hiện tượng chuyển
nghĩa mà có sự chuyển hóa từ loại.
Quy ước ký hiệu:
→ : sự chuyển nghĩa;
⇒ : quan hệ suy ra
Minh họa cho giả
thuyết (2.3.C). Nghĩa nhận thức của từ ĐẾN
là:
(5) Đến = chuyển động
+ có đích
Do nhận thức “có đích”
mà có sự chuyển nghĩa của
đến như sau:
(6) Đến đích → đến kết quả → đến cực điểm (≈ mức độ cao nhất)
Như vậy hàng loạt
cấu trúc “đến A” luôn luôn tạo ra hàm ý “điều
nói đến ở mức độ cao nhất”. Như đến
lạ, đến là, đến lắm, đến phải,
đến thế, đến nước, có đến,
không có đến… “Mê trò chơi
điện tử đến nỗi quên ăn quên ngủ”.
Cấu trúc “Đến x cũng y” luôn luôn có hàm ý x ở
mức độ cực cấp mà người ta thực
hiện y. Như “Đến
ông ấy cũng không quyết được việc này”; “Đến
cậu mà cũng nói như thế à?” (RCC) “Cái phố ấy
đến lắm nhà” (LBC). “Người mà đến
thế thì thôi” (ND).
Do từ đến mà
cụm động từ “V đến
x” luôn luôn tạo ra hàm ý V ở mức độ rất
cao: Lo đến phát ốm. Tôi ngồi đây đến
một tiếng đồng hồ. Học đến
quên ăn quên ngủ. Ông ấy có đến 7 người
con.
3. Con đường chuyển nghĩa
của ĐI và LẠI
Với hai nghĩa nhận
thức (3) và (4), chúng tôi chứng minh được rằng
có con đường chuyển nghĩa của đi, lại cho phép giải
thích nhất quán tất cả các nghĩa của đi,
lại và những tổ hợp cua chung được
ghi trong TĐTV kể cả những cách dùng mang tính
thành ngữ (62 nghĩa của đi, 27 nghĩa của
lại)
3.1. Con đường chuyển
nghĩa của từ ĐI
Các mục 3.1.1.-3.1.12. giải thích những hiện
tượng chuyển nghĩa cụ thể của đi.
Chẳng hạn:
a) Vì sao có thể nói “Hôm
qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió
nội bay đi ít nhiều. (NB)” nhưng không thể
nói “*Hôm qua em đi làng về.”
b) Dời khỏi gốc → xa dần gốc → xa dần tầm nhìn → mờ dần → thoát khỏi tầm nhìn → không thấy → biến mất
Như: xóa đi một
chữ, cắt đi vài đoạn lấy đi,
trốn đi, giấu đi, che đi, lấy
đi, khuất đi, biến mất đi, đi
tong,
c) Dời khỏi gốc → xa dần điểm gốc → xa dần tầm nhìn → mờ dần → sự suy giảm ⇒ sự vật, những đối
tượng mang phẩm chất âm [ - ]
Như: đen đi,
xấu đi, gầy rộc đi, mờ đi,
ngu đi, hèn đi, kém đi, chậm đi,
lười đi, tái đi, xám đi, vơi
đi, lặng người đi…
d) Dời
khỏi gốc → dời
khỏi gốc rễ, cội nguồn (≈gia đình) → ẩn
dụ: chết
Như:
Bác đã đi rồi sao Bác ơi! (TH)
Lưu ý: đối lập với
đi còn là từ về, cũng trỏ sự trở
lại gốc rễ ⇒ về
cũng là ẩn dụ của cái chết. Trong tâm thức
người Việt, với triết lý nhà Phật cõi trần
là cõi tạm. Khi chết con người trở lại thế
giới cội nguồn vĩnh hằng. Vì vậy: về
với tổ tiên, về nơi chín suối, về
với cát bụi, “Áo
bào thay chiếu, anh về đất” (QD)… đều
nói về cái chết.
e) Qua ví dụ Ai lại đi nói
thế! Đời nào mẹ lại đi ghét con! TĐTV
đã nêu một định nghĩa không chuẩn về trợ
từ đi: “III. Từ biểu thị ý nhấn mạnh
về tính chất bất thường hoặc lạ lùng,
ngược đời của một sự việc, để
tỏ ý không tán thành hoặc không tin.”
Chúng tôi chứng minh được
rằng ở hai ví dụ này nghĩa nhấn mạnh này là
do từ lại. Từ đi chỉ phản ánh
phong cách khẩu ngữ.
f) Chúng tôi cũng chứng minh được
tại sao “A đi!” (Làm đi!), “A lại!” (Dừng
lại!) là những cấu trúc mệnh lệnh.
3.2. Sự
phát triển nghĩa của từ LẠI theo nhận
thức không gian và hoạt động
Chúng tôi chứng minh được
rằng:
3.2.1. Lại:
trở lại một vị trí đã xuất phát → sự lặp lại vị
trí đó
3.2.2. Theo (2.3.C) ⇒ Lại
→ lặp lại sự
kiện, thuộc tính.
Ví dụ:
lại mưa, lại ăn, ăn lại, nói lại …
3.2.3. Theo (2.3.D) ⇒ Lại
→ sự phù hợp.
⇒ Có sự
phù hợp ngữ nghĩa giữa A và B trong những cấu
trúc “A vả lại B” “A lại B nữa”, “Đã
A lại B”.
3.2.4. Sự chuyển nghĩa của
lại liên quan tới đi. Từ hình 2.1.
chúng tôi chứng minh được:
3.2.4.1. Lại → hướng tâm → thu hẹp không gian (khoảng cách, thể
tích)
→ sự tập trung
Tất cả những hành động A nào được
nhìn nhận là hướng tâm, tập trung hoặc làm không
gian hẹp đi, thu nhỏ thể tích đối tượng
đều cho phép dùng cấu trúc “A lại” để biểu
thị ý nghĩa này.
Như: ngôn tay co lại,
má hóp lại, cơ teo lại, co cụm lại,
dúm lại, mắt ríu lại, người choắt
lại, đặc quánh lại, đường cô lại,
góp lại, gom lại, vun lại…dồn cục lại, thót
bụng lại, thu mình lại, trói lại, đọng lại, nói tóm lại,
vấn đề được gút lại như
sau…
Sự
thu hẹp dẫn tới gắn kết không còn khoảng
cách. Như: nhắm mắt lại, gấp sách lại,
khít lại, “Có phải duyên nhau thì thắm lại”
(Mời trầu, HXH)
3.2.5. Theo (2.3.C) ⇒ lại → trở về trạng thái ban đầu
Như: lại quả,
lại người, bánh chưng bị lại gạo,
lại sức, tỉnh lại, trẻ lại, lấy lại
tinh thần, nhớ lại…
3.2.6. Lại → vận
động ngược → những hành động, chuyển động
mang ý nghĩa “đáp trả”, “phản ứng”: hòn đất
ném đi hòn chì quăng lại,
cãi lại, mắng lại, phê phán lại, đánh lại, bắn
lại, bật lại…
Lại → những
hiện tượng ngược với thông thường,
ngược đời: Nhưng tức quá, càng uống
lại càng tỉnh ra”(NC). Không
nghe tiếng máy bay sao lại có pháo sáng! (NMC)
⇒ lại
xuất hiện trong mô hình ngôn ngữ nghịch nhân quả
và so sánh đối lập:
X thì A (nhưng)
(mà) Y lại B (IIa)
X thì A
còn Y lại B (IIb)
Nghĩa của A và B trong hai cấu
trúc trên luôn luôn đối lập nhau. Như: Ông bố thì
cao ráo vậy mà cô con gái trông lại Thị Nở quá; Quả
này trông thì đẹp nhưng ăn lại chua; Cô chị
[thì] hiền thế, còn thằng em lại hay gây gổ
với người khác.
3.2.7. Những cấu trúc ngữ pháp
chứa hàm ý
Chính vì “lại” trỏ
những hiện tượng ngược, nên nó được
dùng trong những câu bác bỏ. Khi người ta chất
vấn một hiện tượng ngược với
sự nhìn nhận của mình là người ta bác bỏ
hiện tượng đó. Như: “Sao tôi lại
không biết!” có hàm ý là tôi biết. “Sao lại
không nói điều đó!” có hàm ý là lẽ ra cần nói điều
đó.
Chúng tôi cũng chứng minh được
có những cấu trúc ngữ pháp chứa đựng những
hàm ý xác định. Như: A gì mà lại B thế(/vậy)
luôn luôn có hàm ý là theo quan điểm người nói “đối
tượng này không xứng đáng là A”. Ví dụ: “Yêu
gì mà ki bo thế”, “Con tao mà lại thế à?” (NNT);
Cơ sở lô gích cho sự
hình thành hàm ý này là cơ chế “chất vấn nhằm để
bác bỏ” quan hệ nghịch nhân quả “A mà lại
B”.
4. Lô gích-nhận thức của những từ chỉ
quan hệ và hướng chuyển động trong không gian
4.1. Nghĩa gốc của những
từ trỏ quan hệ về vị trí và chuyển động
Có ba kiểu quan hệ
không gian cơ bản liên quan đến đặc điểm
con người lấy mình làm trung tâm để nhận
thức vũ trụ.
4.1.1. Thứ nhất là quan hệ
không gian ba chiều bao chứa con người. Có hai cặp
từ liên quan: trong, ngoài và ra, vào. Quan hệ
trong-ngoài được minh họa trong không gian hai chiều
như hình 3.1.
Quan hệ vị trí giữa
hai không gian này được thể hiện qua cấu
trúc: “A ở ngoài B” và “B ở trong A”.
Quan hệ định hướng
chuyển động V giữa hai không gian này được
thể hiện qua cấu trúc: “Từ B V ra A” và “Từ
A V vào B”. Với V là một động từ chuyển
động: đi, bò, trườn, chui, chạy, bước,
tiến, nhảy…
4.1.2. Thứ hai là quan hệ
không gian ba chiều cao thấp (hay là trên dưới)
được phân ranh giới bằng một mặt ngang
trừu tượng, mà vẽ trên một hệ tọa độ
hai chiều sẽ là một đường thẳng song
song với đường chân trời, được minh
họa như hình 3.1.2. Liên quan đến quan hệ này là
các từ trên, dưới, lên, xuống.
A (ở trên)
đi lên
______________________
đi xuống
B (ở
dưới)
Hình 3.1.2.
Quan hệ vị trí so
sánh giữa hai không gian này được thể hiện
qua cấu trúc: “A ở trên B” (A cao hơn B) và “B ở dưới
A” (B thấp hơn A). Ký hiệu: A B
Quan hệ định hướng
chuyển động giữa hai không gian này được
thể hiện qua cấu trúc: “Từ B V lên A”; “Từ A V xuống B” với
V là một động từ chuyển động: đi,
chạy, bước, tiến, nhảy …
4.1.3. Thứ ba là quan hệ không gian
ba chiều định hướng trước sau. Trước
mặt và sau lưng. Liên quan đến quan hệ này là các từ
trước, sau, tới, lui.
4.2. Người
Việt sắp xếp các quan hệ không gian theo quy ước
tâm thức
- Quan
hệ trong-ngoài (bao chứa). Quan hệ “B ở trong A” ký
hiệu bằng B ⊂ A. Còn “A ở ngoài B” thì ký hiệu A ⊃ B.
Trong tâm thức, người
Việt quy ước: buồng
⊂ nhà ⊂ sân ⊂ vườn
⊂ ngõ ⊂ đường
Chúng ta nói “trong nhà, ngoài
sân”, “trong sân, ngoài vườn”, “trong nhà chưa tỏ, ngoài
ngõ đã tường.”(tn)
- Quan hệ trên-dưới
(cao-thấp). Nói tới tôn
ti xã hội trong tâm thức liền có những quy ước
về quan hệ cao-thấp. Theo vị thế xã hội,
tuy cùng một mặt bằng nhưng không gian người
có vị thế cao hơn vẫn cao hơn. Không gian của
những trung tâm hành chính, khoa học, văn hóa lớn
thì “cao hơn” những nơi khác: “thành phố Hà Nội, Tp
Hồ Chí Minh > thành phố khác > thị trấn làng”. Ví dụ: “bàn
giáo viên bàn sinh viên”. Do vậy,
cùng mặt bằng nhưng giáo viên vẫn nói “mời em lên
bảng, mời em lên đây quay mặt xuống các
bạn rồi trình bày”. Ở Nam Bộ, chỉ cần nói “tôi
lên thành phố” là người ta hiểu “Tôi lên thành phố
Hồ Chí Minh”.
- Quan hệ trước-sau: Con người nhìn về phía trước.
Từ đó hình thành quan hệ trước mắt/mặt –
sau lưng. Vật nào có hướng nhìn thì hướng đó
trở thành phía trước. Hướng đèn của chiếc
ô tô, xe máy, xe đạp tạo ra phía trước của
chúng. Có những đối tượng không có mặt
hay mắt thì định hướng theo cách khác. Trước
làng là nơi có con đường dẫn vào làng.
4.3. Đặc điểm tiếng
Việt trong cách dùng những từ chỉ quan hệ không
gian
4.3.1. Điểm nhìn trong phát ngôn –
một đặc điểm của cách dùng giới từ
không gian.
Trong ngôn ngữ học
có khái niệm điểm nhìn (viewpoint) hay góc ống
kính (camera angle). Có sự khác nhau về điểm
nhìn giữa các ngôn ngữ.
Tiếng Việt, một
ngôn ngữ đơn lập, có những đặc thù về
điểm nhìn. Người Việt lấy
chủ thể phát ngôn làm yếu tố trung tâm để
xác định các mối quan hệ không gian và xã hội
trong giao tiếp. Dùng khái niệm điểm nhìn sẽ giải
thích được lô gích của những lối nói “phi lô
gích”: Đèn treo trên trần, bằng khen treo trên tường,
thuyền chạy dưới sông, chiếc bút nằm dưới
đất…
Tiếng Anh nhấn mạnh tới
quan hệ giữa hai đối tượng còn tiếng Việt chú
ý tới điểm nhìn nên câu “He is waiting in the living room”
tùy điểm nhìn, mà có 5 cách dịch khác nhau:
(5a) Anh ấy đang đợi dưới
phòng khách.
(5b) Anh ấy
đang đợi trên phòng khách.
(5c) Anh ấy
đang đợi ngoài phòng khách.
(5d) Anh ấy
đang đợi trong phòng khách.
(5e) Anh ấy
đang đợi ở phòng khách.
4.3.2. Những yếu tố ảnh
hưởng tới nhận thức các quan hệ không gian
4.3.2.1.
Chúng tôi đã chỉ ra rằng kích thước, khoảng
cách và vật chắn là những yếu tố ảnh
hưởng tới nhận thức về các quan hệ
không gian.
4.3.2.2. Những
yếu tố lô gích ảnh hưởng tới nhận thức
về cách dùng giới từ và những từ định
hướng chuyển động
4.4. Trạng ngữ và bổ ngữ
4.5. Những hiện tượng
chuyển nghĩa
4.5.1. Theo (2.3.A), không gian hình học
trở thành những không gian trừu tượng: những
tập hợp (như Đảng, đoàn, quân đội,
trường học, hợp tác xã, làng xóm…). Tất
cả những từ ngữ và cấu trúc trỏ quan hệ
và sự chuyển động giữa hai không gian hình
học đều được dùng cho những tập hợp.
Ví dụ, hai từ vào,
ra cũng được dùng để trỏ một
hành động chuyển từ một tập hợp rộng
vào một tập hợp hẹp hoặc ngược lại:
thi vào đại học, được bầu vào ban
chấp hành, lễ ra trường, lễ ra quân…
Quan hệ trên – dưới
giữa hai không gian chuyển thành quan hệ tôn ti vị
thế, đẳng cấp liên quan tới chức vụ,
vị thế xã hội, tuổi tác, gia tộc, lương
bổng... Cho nên hai từ lên, xuống cũng được
dùng để trỏ một sự di chuyển về tôn
ti, vị thế: lên chức, lên lương,
giáng xuống làm dân thường, xuống chiếu
dưới…
4.5.2. Theo (2.3.B), quan hệ
không gian trở thành quan hệ thời gian. Những
ẩn dụ thời gian.
Nhận thức về
thời gian được xây dựng trên nhận thức
không gian. Các từ trực chỉ (deixis) không gian này, kia, đó,
nọ…cũng chuyển thành các từ trực chỉ thời
gian. Chúng cũng dùng để chỉ thời gian quá khứ,
hiện tại và tương lai. Không gian có kích thước
thì thời gian cũng là một đối tượng có
kích thước, cũng là một vật chứa đựng,
cũng có quan hệ bao chứa trong-ngoài, trước-sau,
cao-thấp.
Những hành động
trong không gian cũng chuyển dùng cho thời gian. Chẳng hạn,
lối nói “ngoái cổ lại nhìn” dùng trong những vận
động không gian cũng được dùng cho chuyển
động thời gian: Hết năm, người Việt
có thói quen ngoái nhìn lại, điểm lại những
sự việc được mất, may rủi trong năm
qua. Vậy là hình thành cách nói năm ngoái.
Có hai ẩn dụ về
thời gian. Lối nói xuân sang là theo ẩn dụ thời
gian là một đối tượng chuyển động
về phía chúng ta ([Lakoff & Jhonson, 1980]) và sang
xuân là theo ẩn dụ chúng ta chuyển dịch trong
thời gian theo hướng từ hiện tại tới tương
lai. Nhờ vậy giải thích được hai cách nói
đồng nghĩa: tuần trước ≈ tuần qua, tuần tới
≈ tuần sau.
Thời gian chuyển động
nên những phân đoạn thời gian cũng có hướng:
có “đầu”, có “cuối”: Đầu giờ chiều, đầu
tuần, đầu năm sương muối, cuối năm
gió nồm.
4.5.3. Theo
(2.3.C), quan hệ không gian trở thành những thuộc
tính. Từ trỏ hướng của chuyển
động chuyển thành từ biểu trưng thuộc
tính. Có những hiện tượng chuyển nghĩa
sau:
4.5.3a.
Những đối tượng được dùng ẩn
dụ cũng có những thuộc tính như đối tượng
gốc vốn có.
4.5.3b.
(Hẹp – rộng) → (kín –
hở)→ (không
thấy được – thấy được) → (bí mật
– công khai).
Vậy: vào → hẹp → kín → không thấy được → bên trong → nội
dung;
ra → rộng → hở→ thấy được → công
khai → bên
ngoài → hình
thức;
Nói: Đảng rút vào
hoạt động bí mật; Tên gian đã lẩn vào
đám đông, vấn đề đi vào ngõ cụt,
tiến ra sân khấu, nói vào thực chất vấn
đề, …
4.5.3c. (Trước
– sau) → (thấy
/lộ rõ) – không thấy/lộ rõ)→ (bề mặt – bề sâu)
4.5.3d. (Không thấy được
– thấy được) → (chưa
biết – biết /phát hiện) → (giữ
kín – bộc lộ). Tức là:
ra → thấy được → biết /phát hiện → bộc lộ
vào → không thấy được → chưa biết → giữ kín
Hiện tượng
chuyển nghĩa này giải thích được vì sao có lối
nói “ra Bắc vào Nam” Trong quá trình phát triển, dân
tộc Việt Nam đi từ phía Bắc (nơi ta ở từ
xa xưa là nơi ta đã biết. Do vậy nói ra Bắc)
xuống phía Nam. Tiến về phương Nam là tiến về
nơi rừng núi rậm rạp, nơi ta chưa biết.
Do vậy nói vào Nam.
Hầu hết các quán ngữ,
thành ngữ có từ ra đều có ý nghĩa “bộc
lộ, phát hiện”: té ra, hoá ra, thì ra là, thế ra, ra mặt,
ra tay, ra cái điều, ra đầu ra đũa…
4.5.3e. (Khép - mở) → (hướng tâm- ly tâm) → (thu
hẹp - phát triển) → (âm – dương)
Tức là:
ra → mở
→ ly tâm → phát triển → dương;
vào → khép
→ hướng tâm → thu hẹp → (âm
Nghĩa ly tâm, mở rộng của
ra được thấy trong: bàn ra, giang tay ra, cởi
áo ra, mở gói ra…Nghĩa sự vật phát triển,
có thuộc tính dương: trắng ra , béo ra,
trẻ ra, khỏe ra, đẹp ra, tươi
ra, đỏ đắn ra, xinh ra, ăn nên
làm ra…). Từ ý nghĩa ly tâm, ra lại phát triển
thành nghĩa phân tán, chia nhỏ ra. Chia gia tài ra thành
3 phần; “…Vụ án người
bị chặt ra từng khúc thì không thu hút được
công chúng lắm.” (NAQ)
Nghĩa thu hẹp, tập
trung, hướng tâm của từ vào được
thấy trong: ngồi lui vào, co tay vào, nhìn thẳng
vào sự thật, nhảy vào cuộc, nói vun vào,
lãnh đạo cần gương mẫu để cho
quần chúng còn nhìn vào…
4.5.3f. Lên cao → phát triển → có thuộc tính dương (tốt
đẹp, thuận lợi, may mắn).
Xuống thấp → suy
giảm → có
thuộc tính âm (kém cỏi, bất lợi, không may mắn)
Vì vậy nói: giỏi lên,
đẹp lên, giầu lên, khá lên, béo lên,
mập lên, đỏ lên, xe lên đời, lên
hạng, lên cân, lên nước, cuộc đời
đã lên hương …
Và nói: xuống nước, xuống
giá, xuống thang, xuống sức, xuống
tay, xuống hạng, xuống cân, không khí cuộc
họp lắng xuống…
4.5.3g. Quan hệ vị trí cao/thấp
dẫn tới quan hệ tôn ti trên/dưới, được
phân ranh giới bằng một mặt ngang trừu tượng
(hình 3.1.2.). Mặt ngang này trở thành một tập hợp
trừu tượng X làm điểm tựa, làm nền tảng,
làm chỗ đứng trừu tượng. Từ đây
hình thành cách nói đứng trên lập trường
cách mạng, trên tinh thần đồng chí, dựa trên
thực tế mà đề ra chỉ tiêu. Vợ hắn và hắn bù khú…với
nhau trên câu chuyện chó con (NT).
(Trên-dưới)
→ (chi phối-bị
chi phối) → (tác
động - bị tác động).
Vậy: dưới → bị chi phối → bị
tác động.
Do vậy có cách nói: Trưởng
thành dưới chế độ XHCN, sống dưới
ách thống trị của bọn xâm lược, dưới
mắt người dân…
Nơi
giáp ranh giữa hai không gian cao ở trên và thấp ở
dưới là trung bình. Cái mức trung bình này nhiều
khi mơ hồ, chỉ là sự ước lượng tương
đối nên người Việt dùng luôn cặp từ trên,
dưới để tạo ra một từ ghép đẳng
lập thể hiện sự ước lượng, áng chừng
này. Sự ước lượng, áng chừng phải là
con số tròn gần đúng nên chúng ta nói tuổi trên dưới
50, trên dưới 100 người, bài viết trên dưới
5000 ngàn chữ … mà không nói * tuổi trên dưới 51, * trên
dưới 127 người, *bài viết trên dưới 5010
ngàn chữ …
Tóm tắt
Với
khái niệm nghĩa nhận thức, với giả thuyết
về sự chuyển nghĩa của từ dùng trong không
gian hình học thành từ dùng trong những không gian trừu
tượng của những quan hệ khác (§2), với khái
niệm điểm nhìn, chúng ta đã giải thích được
quá trình chuyển nghĩa từ một nghĩa gốc sang
nghĩa phái sinh của những từ cơ bản trỏ
quan hệ không gian và sự chuyển động trong không gian
đi, lại, vào, ra, lên, xuống, trên, dưới, trong,
ngoài… mỗi từ này có rất nhiều nghĩa được
ghi vào những từ loại khác nhau. Qua đó thấy được
nhiều hiện tượng ngữ nghĩa tiếng Việt
thú vị và lăng kính không gian trong nhận thức nghiệm
thân – lấy mình làm trung tâm – của người Việt.
Dẫn liệu ngôn ngữ
HXH – Thơ Hồ Xuân Hương;
LBC – Lý Biên Cương; NAQ – Nguyễn Ái Quốc, Vi hành;
NB – Nguyễn Bính; NC – Nam Cao, Tác phẩm; ND – Nguyễn
Du; NMC – Nguyễn Minh Châu, Mảnh trăng cuối rừng;
NNT – Nguyễn Ngọc Tư, Ơi cải về trời;
NT – Nguyễn Tuân; NTT – Ngô Tất Tố, Tác phẩm; QD
– Quang Dũng; RCC – phim Rừng chắn cát, t.19; TĐTV
– Từ điển tiếng
Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên,
1992; TH – thơ Tố Hữu
Tài liệu tham khảo
1.
Nguyễn Đức Dân
[1a] Phủ định và bác bỏ, Ngôn ngữ,
số 1 – 1983
[1b] Ngữ nghĩa các từ hư: nghĩa của
cặp từ, Ngôn ngữ, 4.1984
[1c] Lô gích – ngữ nghĩa – cú pháp,
nxb ĐH&THCN, 1987
[1d] Lô
gích của từ nối, [trong] Tiếng Việt và các
ngôn ngữ Đông Nam Á, 36 – 39, Viện Ngôn ngữ học, nxb KHXH, Hà Nội,
1988
[1e] Lô gích của từ nối, [trong] Những
vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, Lưu Vân
Lăng (chủ biên) , 233 – 256, nxb KHXH, Hà Nội, 1994
[1g] Lô gích và tiếng Việt, nxb Giáo dục,
1996
[1h] Những
giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ,
Ngôn ngữ, số 9. 2005
[1i] (viết chung với Đỗ
Thị Thời), Câu chất vấn, Ngôn ngữ, số
9 & 10, 2007
[1k] Ngữ pháp lô gích trong tiếng Việt,
trong: Ngữ pháp tiếng Việt – những vấn đề
lý luận, nxb KHXH, (147 – 212), Hà Nội, 2008
[l1] Tri nhận thời gian trong tiếng
Việt, Ngôn ngữ, số 12.2009, t. 1 – 14 (cũng
xem (chuyên đề cao học ĐHSP), t.227 – 249)
[1m] Con đường chuyển nghĩa
của từ cơ bản: Trường hợp của LẠI,
Ngôn
ngữ, số 11 (t.9 – 14), năm 2010
[1n] Con đường chuyển nghĩa
của từ ĐI, 42 – 46, 84, Từ điển học
và Bách khoa thư, số 60, 11.2013
[1o] Chuyên đề cao học ngôn ngữ
“Lô gích & tiếng Việt”, ĐHSP TP HCM, 2015
2.
Nguyễn Đức Dương, “Đi”
trong sai một li đi một dặm diễn đạt
nghĩa gì? Từ điển học và Bách khoa thư, số
40 , 7.2013
3.
Bùi Mạnh Hùng, Về kết cấu
“đi + danh từ/danh ngữ chỉ địa điểm”,
Từ điển học và Bách khoa thư, số 40
, 7.2013
4. Nguyễn
Lai:
[4a] Một vài đặc điểm
của nhóm từ chỉ hướng được dùng ở
dạng động từ trong tiếng Việt hiện đại,
Ngôn ngữ, số 3, 1977
[4b] Thử xác định ranh giới
và sự chuyển hóa giữa nét nghĩa động tác và
nét nghĩa “hướng” của từ “đi” trong tiếng
Việt hiện đại, Ngôn ngữ, số 2, 1989
[4c] Ghi
nhận thêm về bản chất nhóm từ chỉ hướng
vận động trong tiếng Việt hiện đại,
Ngôn ngữ, số 1-2, 1989
[4d] Về mối quan hệ giữa
phạm trù ngữ nghĩa và ngữ pháp trong tiếng Việt
(qua cứ liệu cụ thể của nhóm từ chỉ hướng
vận động), [trong] Những vấn đề ngữ
pháp tiếng Việt, Lưu Vân Lăng (chủ biên), 211
– 232, nxb KHXH, Hà Nội, 1994
5. TĐTV: Từ điển tiếng
Việt, Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên),
nxb KHXH 1992
6. Viện
Ngôn ngữ học, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông
Nam Á, nxb KHXH, Hà Nội, 1988
7. Vũ
Thế Thạch
[7a] Nghĩa của những từ
như “ra – vào; lên – xuống” trong các tổ hợp kiểu “đi
vào; đẹp lên”, Ngôn ngữ, số 3, 1978
[7b] Các động từ có nghĩa
chỉ dẫn trong tiếng Việt, Trong [tiếng Việt
và các ngôn ngữ Đông Nam Á, 162 – 167, Viện Ngôn ngữ
học, nxb KHXH, Hà Nội, 1988]
8. Lý
Toàn Thắng, Ngôn ngữ và sự tri nhận không gian, Ngôn
ngữ, số 4, 1994
9. Lê Vân
Thanh, Lý Toàn Thắng, Ba giới từ tiếng Anh: at, on,
in (thử nhìn từ góc độ, cơ chế tri nhận
không gian trong sự so sánh đối chiếu với tiếng
Việt), Ngôn ngữ, số 9, 2002
10. G. Fauconnier, Mental Spaces: Aspects of
Meaning Construction in Natural language, Cambridge University Press, 1994
11. G.
Lakoff & M. Jhonson, Metaphors We Live By, University of Chicago
Press, 1980
Nguyễn Đức Dân
Sinh 1936 tại Hà Nội. Giáo sư
(1996)
Cử
nhân toán (1957, ĐHSP HN). Dạy toán (1957 – 1966). Dạy đội
tuyển toán, lớp chuyên toán Hà Nội (1963 – 1966)
Tiến
sĩ ngôn ngữ học (1970, ban Ngôn ngữ học hình thức,
ĐHTH Warszawa, Ba Lan). Dạy ngôn ngữ tại ĐHTH Hà Nội
(1971–1987), ĐHTH Tp. HCM, ĐHKHXH&NV Tp.HCM (từ 1987)
Đã
công bố 20 sách nghiên cứu và giáo trình, trong đó có: Dictionnaire
de fréquence du vietnamien (Paris VII, 1980); Ngôn ngữ
học thống kê (1984); Lôgích –
ngữ nghĩa – cú pháp (1987); Lôgích
và tiếng Việt (1996); Ngữ dụng học,
tập I, (1998); Ngữ pháp tạo sinh (2012); Từ
câu sai tới câu hay (2013)
Hướng
dẫn 19 NCS đã bảo vệ tiến sĩ.
[1] Bài này đã đăng trong “Những vấn đề ngữ văn” tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa Văn học và Ngôn ngữ (ĐHQG TP. HCM), nxb ĐHQG TP.HCM, quý II, 2015 (trang 545 – 557). Ban đầu bài này khoảng 19.500 từ, như vậy quá dài. Theo gợi ý của Khoa, tôi rút xuống còn khoảng 5.000 từ, bình quân như mọi người. Rút gọn dẫn tới đôi chỗ “khó hiểu”, “thiếu thuyết phục”, “võ đoán”…Tôi sẽ in đầy đủ toàn bài này trong chuyên đề cao học “Lô gích và tiếng Việt” để những ai quan tâm có thể tìm đọc. NĐD